Trò chơi vương quyền 5A – Đánh thức rồng thiêng
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 24
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Con thuyền Phiêu Lưu bốc mùi thối hoắc.
Đó là con thuyền một buồm, sáu mươi tay chèo, thân mảnh dài và tốc độ di chuyển khá nhanh. Tuy nhỏ nhưng con thuyền khá ổn, Quentyn nghĩ khi nhìn thấy nó, nhưng đó là trước khi anh lên thuyền và ngửi thấy mùi của nó. Mùi lợn, đó là suy nghĩ đầu tiên của anh, nhưng anh đổi ý sau khi ngửi lần thứ hai. Lợn có mùi sạch sẽ hơn. Mùi hôi hám này là mùi của thịt thối, phân và nước tiểu, mùi xác chết thối rữa và vết thương chảy nước do nhiễm trùng, thứ mùi nặng đến nỗi nó lấn át cả mùi muối biển và cá trên bến cảng.
“Tôi buồn nôn quá,” anh nói với Gerris Drinkwater. Họ đang đợi chủ nhân con thuyền xuất hiện; cả hai đều mồ hôi mồ kê nhễ nhại dưới trời nắng nóng, trong khi mùi hôi thối bốc lên từ boong thuyền phía dưới.
“Nếu thuyền trưởng cũng có mùi như con thuyền này thì ông ta sẽ tưởng bãi nôn của cậu là nước hoa,” Gerris trả lời.
Quentyn đang định gợi ý đổi sang con thuyền khác thì chủ thuyền cuối cùng cũng tới cùng hai thủy thủ tướng mạo gớm ghiếc hai bên. Gerris nở nụ cười chào họ. Dù anh ta không nói tiếng Volantis giỏi như Quentyn, nhưng theo phân công thì anh ta phải là người đứng ra nói chuyện. Khi còn ở thị trấn Planky, Quentyn đã đóng vai người bán rượu, tuy nhiên những nghi lễ lố lăng khiến anh phát điên, và vì thế khi người Dorne đổi thuyền ở Lys, họ cũng chuyển vai luôn. Khi lên thuyền ở Meadowlark, Cletus Yronwood đóng vai lái buôn, Quentyn đóng vai người hầu; còn ở Volantis, vì Cletus đã bị giết nên Gerris phải đóng vai ông chủ.
Cao to, trắng trẻo với đôi mắt xanh, mái tóc vàng màu cát cháy nắng với những sọc không đều, thân hình mảnh dẻ và duyên dáng, Gerris trông có vẻ bảnh bao và nghênh ngang hơn anh, một vẻ tự tin gần lên đến mức tự mãn. Anh ta dường như chẳng bao giờ lo lắng, thậm chí dù không nói chung một thứ tiếng, anh ta vẫn có thể tìm cách diễn đạt cho người khác hiểu. So với anh ta, hình ảnh của Quentyn thật tồi tệ: chân ngắn chắc nịch, thân hình to béo và mái tóc nâu màu đất mới. Trán anh quá cao, hàm quá vuông và mũi lại quá lớn. Khuôn mặt chân thành, một cô gái từng nói như vậy, nhưng anh cần mỉm cười nhiều hơn.
Quentyn Martell không dễ cười, giống hệt như cha anh.
“Thuyền Phiêu Lưu của ông đi có nhanh không?” Gerris hỏi bằng thứ tiếng High Valyria lơ lớ.
Chủ thuyền Phiêu Lưu nhận ra giọng anh ta nên trả lời bằng tiếng phổ thông
Westeros. “Không một con thuyền nào có thể đi nhanh hơn, thưa lãnh chúa đáng kính. Phiêu Lưu có thể chạy nhanh như gió. Chỉ cần nói ngài muốn đi đâu, và tôi sẽ nhanh chóng đưa ngài đến đó.”
“Tôi muốn đến Meereen cùng với hai đầy tớ nữa.”
Thuyền trưởng khựng lại một chút khi nghe đến đó. “Meereen đối với tôi không xa lạ gì. Tôi có thể quay lại đó, nhưng mà… tại sao vậy? Ở Meereen chẳng có nô lệ nào nữa cả, cũng chẳng có lợi lộc gì ở đó. Nữ hoàng bạch kim đã chấm dứt tất cả rồi. Cô ấy thậm chí còn đóng của cả trường đấu, nên các thủy thủ tội nghiệp chẳng có chỗ nào để xả hơi trong khi chờ khách. Hãy nói xem, người bạn xứ Westeros của tôi, ở Meereen có gì mà các ngài lại muốn đến đó vậy?”
Có người phụ nữ đẹp nhất thế gian, Quentyn nghĩ. Cô dâu tương lai của ta, nếu các vị thần tốt bụng. Thỉnh thoảng trong đêm, anh vẫn thao thức tưởng tượng ra khuôn mặt, dáng người cô và tự hỏi tại sao một phụ nữ như cô ấy phải chọn anh giữa vô vàn các hoàng tử trên thế giới. Ta là người Dorne, anh tự nhủ. Cô ấy sẽ muốn lấy người Dorne.
Gerris trả lời bằng câu chuyện họ tự bịa ra. “Buôn bán rượu là nghề truyền thống của gia đình tôi. Cha tôi sở hữu những vườn nho rộng bát ngát ở Dorne, và muốn tôi mở rộng giao thương. Chúng tôi hy vọng rằng đám người xứ Meereen sẽ thích những gì tôi bán.”
“Rượu à? Rượu xứ Dorne ư?” Vị thuyền trưởng không bị thuyết phục cho lắm. “Các thành phố nô lệ đang trong thời kỳ chiến tranh. Chẳng nhẽ ngài không biết chuyện này sao?”
“Cuộc chiến là của người Yunkai và Astapor, chúng ta có nghe đến rồi. Meereen không liên quan.”
“Chưa, nhưng sẽ sớm thôi. Thậm chí lúc này một sứ giả đến từ Thành Phố Vàng cũng đang ở Volantis thuê các tay kiếm. Hội Giáo Dài đã dong thuyền tới Yunkai, hội Gió Thổi và hội Nhóm Mèo sẽ theo sau một khi họ tập trung quân xong. Hội Chiến Binh Vàng cũng đang hành quân về phía đông. Ai cũng biết điều này.”
“Cứ cho là vậy. Nhưng tôi buôn rượu chứ không tham gia chiến tranh. Rượu vùng Ghis rất tệ hại, ai cũng phải công nhận điều đó. Người Meereen sẽ trả một khoản hậu hĩnh cho những thùng rượu nho xứ Dorne hảo hạng của tôi.”
“Người chết chẳng quan tâm họ uống loại rượu nào đâu.” Chủ thuyền Phiêu Lưu lấy tay vuốt râu. “Có lẽ tôi không phải là thuyền trưởng đầu tiên các ngài đến gặp, và cũng không phải người thứ mười.
“Không,” Gerris thừa nhận.
“Thế thì bao nhiêu? Một trăm à?”
Gần đúng thôi, Quentyn nghĩ. Người Volantis luôn thích khoe khoang rằng vùng cảng của họ đủ sâu và rộng để nhấn chìm hàng trăm đảo nhỏ của Braavos. Quentyn chưa bao giờ thấy Braavos, nhưng anh tin vào điều đó. Giàu có, chín nục và thối nát, Volantis trải dài trên cửa sông Rhoyne giống như một nụ hôn dài ấm và ướt át, dọc theo các quả đồi, đầm lầy và cả hai bờ con sông. Trên sông tấp nập thuyền đi ngược lên thượng nguồn hoặc xuôi ra biển lớn, chúng đỗ chật bãi biển và cầu cảng để bốc dỡ hàng hóa: thuyền chiến, tàu bắt cá voi, ga-lê, tàu vuông, thuyền nhẹ, thuyền cog, thuyền cog đại, thuyền dài, thuyền thiên nga, thuyền từ Lys, Tyrosh và Pentos, thuyền đến từ Qarth nguy nga như cung điện, thuyền từ Tolos, Yunkai và Basilisks. Chúng nhiều đến nỗi khi Quentyn nhìn thấy bến cảng lần đầu từ trên boong thuyền Chiền Chiện, anh đã bảo các bạn mình rằng họ sẽ chỉ nán lại đây ba ngày.
Thế nhưng hai mươi ngày đã trôi qua và họ vẫn còn ở đây, chẳng tìm được con thuyền nào. Thuyền trưởng của các thuyền Melantine, Con Gái Triarch và Nụ Hôn Tiên Cá đều từ chối họ. Một người bạn trên thuyền Nhà Du Hành Dũng Cảm còn cười vào mặt họ. Chủ thuyền Cá Heo mắng họ vì đã làm mất thời gian của ông ta, còn chủ thuyền Con Trai Thứ Bảy còn vu cho họ là cướp biển. Đấy mới chỉ là trong ngày đầu tiên.
Chỉ có thuyền trưởng thuyền Nai Nhỏ là cho họ biết lý do từ chối. “Đúng là tôi có đi về phía đông,” ông ta nói với họ giữa những chén rượu. “Về phía nam quanh Valyria và sau đó đi theo hướng mặt trời mọc. Chúng ta sẽ tiếp thêm nước và lương thực ở New Ghis, sau đó lại chèo đến Qarth và Cổng Ngọc. Mọi chuyến hải trình hầu như đều đã dài lê thê và mệt mỏi. Tại sao tôi phải đến Vịnh Nô Lệ làm gì để chuốc thêm nguy hiểm nữa? Nai Nhỏ là kế sinh nhai của tôi. Tôi sẽ không liều hy sinh nó để chở ba gã điên người Dorne vào giữa cuộc chiến đâu.”
Quentyn bắt đầu nghĩ có lẽ tốt hơn họ nên mua một con thuyền khi còn ở thị trấn Planky. Tuy nhiên việc đó sẽ gây ra sự chú ý không cần thiết. Nhền Nhện có tai mắt ở khắp mọi nơi, ngay cả trong sảnh Giáo Mặt Trời. “Dorne sẽ đổ máu nếu mục đích chuyến đi của con lộ ra,” cha anh đã cảnh báo khi họ cùng ngắm lũ trẻ nô đùa trong hồ và đài phun nước ở Thủy Viên. “Những gì chúng ta đang làm là phản nghịch, đừng nhầm lẫn. Con chỉ được tin vào các bạn đồng hành, và cố gắng tránh gây chú ý không cần thiết.”
Vì thế Gerris tặng cho chủ thuyền Phiêu Lưu nụ cười trấn an tươi tắn nhất. “Thực tình mà nói tôi không nhớ được bao nhiêu kẻ hèn nhát đã từ chối chúng tôi, nhưng ở Nhà Lái Buôn, tôi nghe nói anh là một người dũng cảm, kẻ dám mạo hiểm làm bất cứ
việc gì, chỉ cần được nhận đủ vàng.”
Một tên buôn lậu, Quentyn nghĩ. Đó là từ mà các thương nhân khác dùng để gọi chủ thuyền Phiêu Lưu khi ở Nhà Lái Buôn. “Hắn vừa buôn lậu vừa là chủ buôn nô lệ, nửa tướng cướp nửa ma cô, nhưng có lẽ hắn là hy vọng lớn nhất của các người,” chủ nhà trọ nói với họ.
Viên thuyền trưởng chà ngón cái và ngón trỏ vào nhau. “Thế ngài nghĩ bao nhiêu vàng là đủ cho một chuyến hải trình như thế này?”
“Gấp ba lần giá bình thường ông vẫn chở khách đến Vịnh Nô Lệ.”
“Mỗi người sẽ trả gấp ba?” Vị thuyền trưởng nhe răng và dường như định nở nụ cười, xong mặt hắn trông chỉ càng thêm hoang dã. “Có thể. Đúng là ta dũng cảm hơn hầu hết những kẻ khác. Bao giờ các ngài muốn đi?”
“Tôi muốn đi ngay ngày mai.”
“Được. Ngày mai hãy đến sớm một tiếng trước khi trời sáng, với bạn đồng hành và rượu của ngài. Tốt nhất hãy lên đường trong khi Volantis còn đang say ngủ, để không ai hỏi chúng ta những câu phiền phức về đích đến.”
“Được. Một giờ trước khi trời sáng.”
Nụ cười của tay thuyền trưởng càng rộng hơn. “Tôi rất vui mừng vì có thể giúp các ngài. Chúng ta sẽ có một hành trình vui vẻ, phải không nào?”
“Chắc chắn rồi,” Gerris nói. Vị thuyền trưởng gọi bia và hai người họ uống một hơi mừng thương vụ thành công.
“Một gã đáng yêu đấy chứ,” Gerris nói khi anh và Quentyn quay về chân cầu cảng nơi chiếc hathay5 họ thuê đang đứng chờ. Không khí nặng nề và nóng bức, ánh nắng chói chang khiến cả hai người họ phải nheo mắt lại.
“Thành phố này thật ngọt ngào,” Quentyn đồng ý. Đủ ngọt để khiến người ta sâu răng. Củ cải đường được trồng ở khắp nơi xung quanh khu vực này, và có mặt trong hầu như mọi bữa ăn. Người Volantis dùng chúng để chế súp lạnh, đặc và sánh như mật ong tía. Rượu làm từ chúng cũng rất ngọt. “Tuy nhiên tôi sợ là cuộc hành trình hạnh phúc của chúng ta sẽ kết thúc sớm. Gã thuyền trưởng ngọt ngào đó sẽ không đưa chúng ta đến Meereen đâu. Hắn chấp nhận lời đề nghị của anh quá dễ dàng. Chắc chắn hắn sẽ thu tiền nhiều gấp ba lần lệ phí bình thường, và một khi chúng ta đã lên thuyền và khuất bóng đất liền rồi, hắn sẽ cắt cổ chúng ta và lấy tất số vàng còn lại.”
“Hoặc là bắt chúng ta cắm mặt chèo thuyền, bên cạnh một lũ người khốn khổ hôi hám. Chúng ta phải tìm một tên buôn lậu thuộc tầng lớp cao hơn, tôi nghĩ thế.”
Người đánh xe đợi họ bên cạnh chiếc hathay của anh ta. Ở Westeros, người ta sẽ gọi đó là xe bò, dù nó được trang trí lộng lẫy hơn bất kỳ chiếc xe nào Quentyn từng thấy ở Dorne, và không có con bò nào cả. Xe được kéo bởi một con voi giống nhỏ, da màu nâu xám. Đường phố ở Volantis Cổ đầy rẫy những chiếc xe như thế.
Quentyn thích đi bộ hơn, nhưng cầu cảng cách nhà trọ của họ khá xa. Ngoài ra, chủ nhà trọ ở Nhà Lái Buôn còn cảnh báo anh rằng việc đi bộ sẽ làm ô uế hình ảnh của họ trong mắt cả các thuyền trưởng ngoại quốc và cư dân Volantis. Những người thuộc tầng lớp trên đi lại bằng kiệu hoặc hathay… Thật may là chủ nhà trọ có một người em họ sở hữu vài chiếc xe như vậy và luôn sẵn sàng phục vụ.
Người đánh xe của họ là một trong số nô lệ của người em họ, một người đàn ông nhỏ bé với hình xăm bánh xe trên má. Anh ta không mặc gì ngoài một chiếc khố và một đôi dép xăng đan. Da anh ta màu gỗ tếch, mắt như hai viên đá lửa. Sau khi giúp họ lên chiếc ghế đệm nằm giữa hai bánh xe gỗ vĩ đại phía sau, anh ta trèo lên lưng voi. “Về Nhà Lái Buôn,” Quentyn nói, “nhưng đi dọc theo cầu tàu nhé.” Khi không còn những làn gió mát ở bờ sông, đường phố và những con ngõ của Volantis nóng đến mức một người có thể chết đuối trong mồ hôi của chính mình, ít nhất là ở phía bên này con sông.
Người đánh xe hét câu gì đó với con voi bằng tiếng địa phương. Con vật bắt đầu chuyển động, cái vòi lúc lắc bên này qua bên kia. Chiếc xe tròng trành phía sau, người đánh xe hò hét yêu cầu các thủy thủ và nô lệ dẹp đường. Thật dễ để phân biệt bọn họ. Các nô lệ đều có những hình xăm: một chiếc mặt nạ lông xanh, một tia chớp chạy từ hàm lên trán, một đồng xu trên má, một đốm da báo, một chiếc đầu lâu, một cái bình. Maester Kedry nói cứ mỗi một người tự do ở Volantis thì có năm nô lệ, dù ông đã không sống đủ lâu để kiểm chứng ước tính của mình. Ông qua đời trong buổi sáng lũ hải tặc trèo lên thuyền Chiền Chiện.
Quentyn mất hai người bạn cũng trong ngày hôm đó − Willam Wells tàn nhang với hàm răng vặn vẹo, một chàng trai quả cảm với cây thương trong tay, và Cletus Yronwood khá đẹp mã ngoại trừ đôi mắt lờ đờ, một gã lúc nào cũng ồn ào và cười rất to. Trong suốt nửa cuộc đời mình, Cletus là bạn thân nhất của Quentyn. Họ giống như hai anh em, chỉ khác là không chung dòng máu. “Nhờ cậu gửi nụ hôn của tôi đến cô dâu của cậu nhé,” Cletus thì thầm với anh trước khi nhắm mắt.
Lũ cướp biển tràn lên tàu trong đêm tối trước bình minh, khi con thuyền Chiền Chiện đang thả neo bên bờ biển Vùng Đất Tranh Chấp. Thủy thủ đoàn đẩy lui được bọn chúng, nhưng phải trả giá bằng mười hai mạng người. Sau đó họ lột sạch giày, thắt lưng, vũ khí trên những xác chết, chia nhau tiền trong ví và giật đá quý từ hoa tai và nhẫn trên tay họ. Một trong những cái xác béo đến nỗi đầu bếp trên thuyền phải
chặt đứt ngón tay hắn bằng dao phay chặt thịt để lấy mấy chiếc nhẫn. Phải ba thủy thủ Chiền Chiện mới lăn nổi cái xác xuống biển. Xác những tên khác lần lượt được quăng đi, không một lời cầu nguyện hay tế lễ.
Những người chết bên phía họ được đối đãi tử tế hơn nhiều. Các thủy thủ khâu xác họ lại bên trong lớp vải liệm và bỏ thêm đá để chúng chìm dễ dàng hơn. Thuyền trưởng thuyền Chiền Chiện hướng dẫn các thủy thủ cầu nguyện cho linh hồn của những người bạn bị sát hại. Sau đó ông quay sang những vị khách xứ Dorne, ba người còn lại trong số sáu người lên thuyền từ thị trấn Planky. Ngay cả gã béo ị cũng xuất hiện, xanh xao nhợt nhạt và đứng còn không vững, nhưng anh ta vẫn cố lên nói lời cuối với những người quá cố. “Mỗi chúng ta nên nói câu gì đó với những người đã khuất, trước khi đưa họ về với biển cả,” thuyền trưởng nói. Gerris làm theo, mỗi lời đều dối trá vì anh không dám nói sự thật về lý do họ tới đây.
Họ không bao giờ nghĩ mọi việc lại kết thúc như vậy. “Đây sẽ là câu chuyện để kể lại cho con cháu chúng ta,” Cletus đã tuyên bố như thế trong ngày họ rời tòa lâu đài của cha anh. Will nhăn mặt nói, “Câu chuyện để kể cho lũ điếm trong quán rượu đúng không, với hy vọng họ sẽ tốc váy lên cho cậu.” Cletus vỗ lưng Will. “Để có cháu cậu cần có con. Để có con, tất nhiên cậu cần phải tốc váy ai đó rồi.” Sau đó tại thị trấn Planky, đám người Dorne đã nâng cốc chúc mừng cô dâu tương lai của Quentyn, họ nói những câu chuyện đùa tục tĩu về đêm đám cưới và về những gì họ nhìn thấy, việc họ sẽ làm và chiến thắng vinh quang sắp tới. Vậy mà tất cả những vinh quang họ nhận được chỉ là những tấm vải buồm chất đầy đá nặng.
Dù thương tiếc Will và Cletus vô cùng, nhưng cái chết của maester mới khiến Quentyn lo lắng nhất. Kedry thông thạo ngôn ngữ của các Thành Phố Tự Trị, thậm chí là thứ tiếng của đám người lai ở Ghis mà mọi người hay sử dụng dọc bờ biển Vịnh Nô Lệ. “Maester Kedry sẽ đi cùng con,” cha anh nói trong đêm họ chia tay. “Hãy nghe theo lời cố vấn của ông ấy. Ông ấy đã dành cả nửa đời người nghiên cứu Chín Thành Phố Tự Trị rồi.” Quentyn tự hỏi liệu mọi việc có dễ dàng hơn nhiều khi có ông ấy ở đây hướng dẫn cho họ hay không.
“Giờ tôi sẵn sàng đổi mẹ tôi để lấy một ít gió,” Gerris nói khi họ di chuyển qua những đám đông đứng chật ních trên bến cảng. “Không khí ẩm ướt như háng Trinh Nữ ấy, mà mới chỉ gần đến trưa. Tôi ghét thành phố này.”
Quentyn cũng có chung cảm giác đó. Thời tiết nóng ẩm bức bối của Volantis làm sức khỏe anh giảm sút và người ngợm luôn bẩn thỉu. Nhưng vẫn không tồi tệ bằng việc biết rằng đêm đến cũng chẳng khá hơn. Ở cao nguyên phía bắc thuộc lãnh địa của Lãnh chúa Yronwood, không khí luôn luôn khô ráo và mát mẻ vào ban đêm, cho dù ban ngày có nóng nực đến cỡ nào. Nhưng ở đây không như vậy. Ở Volantis, đêm
ngày đều nóng như nhau.
“Sáng mai thuyền Nữ Thần sẽ lên đường đến New Ghis,” Gerris nhắc. “Ít nhất chúng ta cũng sẽ đến gần đích hơn.”
“New Ghis là một hòn đảo và nhỏ hơn cảng này nhiều. Đúng là chúng ta sẽ đến gần hơn, nhưng đồng thời cũng sẽ bị mắc kẹt ở đó. Hơn nữa New Ghis còn liên minh với Yunkai.” Quentyn chẳng ngạc nhiên gì trước thông tin đó. New Ghis và Yunkai đều là các thành phố của Ghis. “Nếu Volantis liên minh với họ nữa thì…”
“Chúng ta cần tìm một con thuyền đến từ Westeros,” Gerris gợi ý, “một thương gia nào đó đến từ cảng Lannisport hoặc Oldtown.”
“Chẳng mấy khi họ đi xa như vậy, và nếu có thì họ cũng chở đầy lụa là và hương liệu từ Đảo Ngọc Bích và quay về nhà.”
“Hay là thuyền Braavos? Thậm chí ở những nơi xa xôi như Asshai hay các đảo trên biển Ngọc Bích người ta cũng nghe danh về các con thuyền sơn tím.”
“Tổ tiên của người Braavos là lũ nô lệ bỏ trốn. Họ không buôn bán gì ở Vịnh Nô Lệ đâu.”
“Chúng ta có đủ tiền để mua thuyền không?”
“Nhưng ai sẽ chèo nó? Anh? Hay tôi?” Người Dorne đã thôi làm thủy thủ kể từ khi bị Nymeria đốt cháy mười nghìn con thuyền. “Vùng biển quanh Valyria rất nguy hiểm, và đầy rẫy hải tặc nữa.”
“Thôi thôi, tôi quá ngán cướp biển rồi. Đừng mua thuyền.”
Đây vẫn chỉ là một trò chơi đối với anh ta, Quentyn nhận ra điều đó, nó chẳng khác gì lần anh dẫn sáu người lên núi tìm hang ổ của Vua Kền Kền. Trong tâm thức, Gerris Drinkwater chưa bao giờ nghĩ họ sẽ thua, chứ chưa nói đến chuyện sẽ chết. Ngay cả cái chết của ba người bạn dường như cũng không làm anh ta tỉnh ngộ. Anh ta đẩy hết mọi việc cho mình. Anh ta biết bản tính của mình là cẩn trọng, còn anh ta thì gan dạ.
“Có lẽ gã to xác nói đúng,” Gerris nói. “Không thèm đi đường biển nữa, chúng ta sẽ đi bằng đường bộ.”
“Anh biết tại sao anh ta lại nói vậy không,” Quentyn nói. “Anh ta thà chết còn hơn bước lên một con thuyền nữa.” Mặt gã to xác xanh lét trong suốt những ngày trên biển. Ở Lys, anh ta phải mất bốn ngày để hồi phục sức khỏe. Họ đã phải thuê phòng trọ để Maester Kedry đặt anh ta lên một chiếc giường lông, bón cháo và thuốc cho anh ta, cho đến khi mặt anh ta hồng hào trở lại một chút.
Đúng là họ có thể đi đường bộ đến Meereen. Những con đường ở Valyria cổ đại sẽ
đưa họ đến đó. Người ta gọi những con đường đá lớn của Freehold là Đường Rồng, nhưng con đường chạy về hướng đông từ Volantis tới Meereen mang cái tên quái gở hơn: ma lộ.
“Ma lộ vừa nguy hiểm, lại vừa dài nữa,” Quentyn nói. “Tywin Lannister sẽ cho người đuổi bắt nữ hoàng một khi thông tin về cô ấy lan truyền tới Vương Đô.” Cha anh chắc chắn điều đó. “Và họ sẽ đem đao kiếm đến. Nếu họ tìm thấy cô ấy trước…”
“Hãy hy vọng là lũ rồng sẽ đánh hơi ra và ăn thịt hết bọn chúng,” Gerris nói. “Còn nếu chúng ta không thể tìm được thuyền, và cậu không chịu đi đường bộ thì chịu vậy, chúng ta đặt chỗ quay về Dorne thôi.”
Cúp đuôi bò về Sunspear trong thất bại ê chề ư? Quentyn sẽ không thể chịu đựng được nỗi thất vọng lớn lao của cha và sự dè bỉu, khinh miệt của mấy chị em Rắn Cát. Doran Martell đã đặt vận mệnh của Dorne vào tay anh, anh không thể làm ông thất vọng, một khi vẫn còn sống trên đời này.
Mặt đường bốc hơi nóng lên ngùn ngụt khi chiếc hathay lọc cọc nảy tưng tưng trên hai bánh xe vành sắt, khiến quang cảnh xung quanh họ trông kỳ ảo như trong một giấc mơ. Khu bờ sông chật cứng những nhà hàng, cầu tàu, cửa hiệu, quầy sạp đủ loại.
Ở đây họ bày bán từ hàu tươi, xích sắt, còng tay cho đến những quân cờ cyvasse chạm khắc bằng ngà voi và ngọc bích. Ở đây có cả những ngôi đền nơi thủy thủ đến cúng tế những vị thần xa lạ, xen kẽ với những nhà thổ nơi phụ nữ đứng trên ban công gọi vọng xuống đám đàn ông phía dưới. “Nhìn cô em kia kìa,” Gerris giục khi họ đi qua một nhà thổ. “Tôi nghĩ cô ta yêu cậu rồi.”
Và tình yêu của một con điếm đáng giá bao nhiêu? Thực tình mà nói, các cô gái bao giờ cũng khiến Quentyn lo lắng, đặc biệt là những cô nàng xinh đẹp.
Khi mới tới Yronwood, anh đã bị choáng ngợp bởi Ynys, con gái đầu lòng của Lãnh chúa Yronwood. Dù chưa bao giờ nói một lời về cảm giác của mình, nhưng anh nuôi giấc mơ đó suốt nhiều năm… cho đến khi cô được gả cho Ser Ryon Allyrion, người kế thừa dòng họ Godsgrace. Trong lần gặp gần đây nhất cô ấy đã có một thằng nhóc đang ẵm trên ngực và một đứa nữa đang bám đằng sau váy.
Sau Ynys là hai cô con gái sinh đôi Nhà Drinkwater, hai thiếu nữ da ngăm đen với thú vui săn bắn, săn bằng chim ưng, leo núi và làm Quentyn đỏ mặt. Một người còn lấy đi của anh nụ hôn đầu, dù anh không thể phân biệt được là ai trong hai người họ. Là các con gái của một hiệp sĩ được phong đất, cặp sinh đôi có xuất thân quá thấp kém để anh có thể lấy làm vợ, nhưng Cletus thấy chẳng có lý do gì anh không được hôn bọn họ. “Sau khi làm đám cưới anh có thể lấy một trong hai người họ làm vợ lẽ. Hoặc là cả hai, tại sao không chứ? Nhưng Quentyn đưa ra một vài lý do ngược lại, vì thế sau đó anh đã tránh mặt cặp sinh đôi và chẳng bao giờ có nụ hôn thứ hai.
Gần đây hơn, con gái út của Lãnh chúa Yronwood thường lẽo đẽo đi theo anh khắp lâu đài. Gwyneth mới chỉ mười hai tuổi và là một bé gái nhỏ nhắn, gầy nhẳng với đôi mắt to đen và mái tóc nâu khác biệt trong một gia tộc tóc vàng mắt xanh. Tuy nhiên cô bé khá khôn ngoan lanh lợi, nhanh nhẹn cả mồm mép lẫn tay chân và thường dặn Quentyn rằng anh phải đợi đến khi cô dậy thì để hai người có thể cưới nhau.
Đó là trước khi Hoàng tử Doran triệu tập anh về Thủy Viên. Còn bây giờ, người phụ nữ đẹp nhất thế giới đang đợi ở Meereen, anh muốn hoàn thành nhiệm vụ của mình và lấy được cô làm vợ. Cô ấy sẽ không từ chối ta. Cô ấy sẽ hân hạnh chấp nhận lời cầu hôn. Daenerys Targaryen sẽ cần Dorne để có được Bảy Phụ Quốc, tức là cô ấy sẽ cần anh. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là cô ấy sẽ yêu ta. Thậm chí có thể cô ấy còn chẳng thích ta.
Đoạn đường uốn lượn nơi dòng sông đổ ra biển, và dọc khúc quanh có một đám người bán động vật đang đứng túm tụm với nhau, họ bán những con thằn lằn sặc sỡ, rắn khoang khổng lồ và những con khỉ nhỏ nhanh nhẹn với cái đuôi vằn và hai bàn tay màu hồng khéo léo. “Có lẽ nữ hoàng bạch kim của cậu sẽ thích một con khỉ đấy,” Gerris nói.
Quentyn không biết Daenerys Targaryen sẽ thích thứ gì. Anh đã hứa với cha rằng sẽ đưa cô ấy về Dorne, nhưng anh ngày càng nghi ngờ liệu anh có đủ sức thực hiện nhiệm vụ này hay không.
Ta chưa bao giờ xin được làm việc này, anh nghĩ.
Phóng tầm mắt ra xa hơn miền xanh thẳm ngút ngàn của Rhoyne, anh thấy bức Tường Thành Đen từng được người Valyria dựng lên khi Volantis mới chỉ là một tiền đồn của đế chế rộng lớn: một bức tường đá vĩ đại hình ô van cao 60 mét và dày đến nỗi sáu chiếc xe bốn ngựa kéo có thể sánh hàng ngang đi trên đỉnh bức tường, giống như họ vẫn thường làm mỗi năm để kỷ niệm ngày thành lập thành phố. Người ngoại quốc và cư dân tự do không được phép vào bên trong Tường Thành Đen trừ khi có lời mời của những người sống trong đó, cụ thể là hậu duệ của những gia đình quyền quý mang dòng máu Valyria cổ xưa.
Đường phố ở đây cũng dày đặc hơn. Chúng ở gần đầu phía tây của Cầu Dài, chiếc cầu nối hai nửa thành phố lại với nhau. Xe thồ, xe bò và hathay đi lại trên đường như mắc cửi, tất cả đều từ bên kia cầu sang hoặc chuẩn bị qua cầu. Nô lệ đông như gián ở khắp mọi nơi, ai nấy đều hối hả đi lo việc cho chủ nhân.
Cách khu Chợ Cá và Nhà Lái Buôn không xa, anh nghe thấy tiếng hò hét phát ra từ ngã tư nơi một tá lính đánh thương thuộc hội Thanh Sạch bỗng xuất hiện trong những bộ giáp lộng lẫy và áo choàng lông hổ. Họ vẫy mọi người tránh sang hai bên để các
triarch6 cưỡi voi đi qua. Con voi của triarch là một con vật khổng lồ với bộ da xám và khoác trên mình bộ giáp tráng men được trang trí công phu, với mỗi bước đi chúng lại va vào nhau kêu xủng xoảng. Tòa tháp đặt trên lưng nó cao đến nỗi chạm vào đỉnh cổng vòm trang trí bằng đá khi nó đi qua bên dưới. “Các triarch cao quý đến mức chân họ không được phép chạm xuống đất trong những năm tháng trị vì,” Quentyn giải thích cho người bạn đồng hành của mình. “Họ luôn luôn ngồi trên lưng voi mỗi khi di chuyển.”
“Làm tắc nghẽn hết cả đường phố và để lại những đống phân cho những kẻ như chúng ta,” Gerris nói. “Tại sao Volantis cần ba hoàng tử trong khi Dorne chỉ cần một, tôi không hiểu nổi.”
“Các triarch ở đây không phải vua cũng chẳng phải hoàng tử. Volantis là một vùng đất tự do giống như Valyria cổ đại. Tất cả địa chủ sở hữu trong tay đất đai sẽ nắm quyền cai trị. Ngay cả phụ nữ cũng được quyền biểu quyết, chỉ cần họ có đất. Ba vị triarch được chọn ra từ các gia đình quý tộc thuộc dòng dõi Valyria cổ, để trị vì cho đến ngày đầu tiên của năm mới. Anh sẽ biết tất cả những chuyện này nếu chịu đọc cuốn sách mà Maester Kedry đưa cho.”
“Nhưng nó chẳng có tranh ảnh gì cả.”
“Có bản đồ đấy thôi.”
“Bản đồ không tính. Nếu ông ấy nói trước là sách nói về hổ và voi thì tôi có thể còn thử đọc. Trông nó chẳng khác nào một cuốn sách lịch sử.”
Khi hathay của họ đến rìa Chợ Cá, con voi giương vòi và rống lên một tiếng nghe như tiếng ngỗng kêu. Con vật ngần ngại không muốn lao vào giữa đám xe thồ, kiệu và đám người đi bộ đông như kiến trước mặt. Người đánh xe thúc giày vào mạng sườn con voi để nó tiếp tục đi.
Những người bán cá đang hăng hái rao bán những gì buổi sáng vừa bắt được. Quentyn cố gắng lắm mới hiểu được một nửa những gì họ nói, nhưng không cần hiểu anh cũng biết đâu là cá gì. Anh nhìn thấy các loại cá thu, cá cờ, cá mòi cùng hàng thùng trai và vẹm. Lươn được treo dọc mặt trước của một quầy sạp. Một sạp khác bày bán một con rùa khổng lồ chân bị cột bằng xích sắt và phải nặng bằng cỡ một con ngựa lớn. Cua bò lổm ngổm trong một thùng đựng đầy nước và tảo biển. Một số người bán hàng rong đang rán cá với hành và củ cải đường hoặc bán cá hầm ớt trong những chiếc ấm sắt nhỏ.
Giữa khu chợ, bên dưới một bức tượng nứt không đầu của một vị triarch quá cố, đám đông bắt đầu tụ tập quanh mấy tên lùn xem họ biểu diễn. Hai người lùn mặc giáp gỗ, giả làm các hiệp sĩ đang chuẩn bị cho một trận cưỡi ngựa đấu thương. Quentyn
nhìn thấy một người cưỡi chó, còn người kia nhảy lên lưng một con lợn… và trượt ngã xuống đất, làm mọi người phá lên cười.
“Trông họ có vẻ hào hứng nhỉ,” Gerris nói. “Chúng ta có nên dừng lại xem họ đấu không? Cậu cười lên một chút sẽ tốt hơn, Quent ạ. Trông cậu như một ông già nửa năm không đi ị lần nào ấy.”
Tôi mới 18 tuổi, nhỏ hơn anh 6 tuổi, Quentyn nghĩ. Tôi đâu có già. Thay vào đó anh nói, “Tôi không thích xem mấy gã lùn tấu hài. Trừ khi họ có thuyền.”
“Một con thuyền nhỏ, chắc là có.”
Nhà Lái Buôn cao bốn tầng đứng sừng sững, to hơn hẳn những cầu tàu, cầu cảng và nhà kho xung quanh. Ở đây các thương gia đến từ khắp mọi nơi: Oldtown, Vương Đô, Braavos, Pentos và Myr, họ hòa cùng đám người Ibben lông rậm, những người da trắng xanh từ Qarth xa xôi tới, người từ Đảo Summer da đen như than trong những chiếc áo choàng lông vũ, thậm chí cả những phù thủy bóng tối đeo mặt nạ đến từ Vùng đất Bóng Tối Asshai.
Quentyn cảm nhận được sức nóng của vỉa hè đá dưới chân lúc trèo xuống từ chiếc hathay, ngay cả khi đã đi đôi bốt da. Bên ngoài Nhà Lái Buôn, một chiếc bàn chân rời được dựng lên trong bóng râm và trang trí bằng những lá cờ hiệu đuôi nheo sọc xanh trắng, đám cờ bay phấp phới mỗi khi có cơn gió thổi qua. Bốn tên lính đánh thuê với ánh mắt dữ tợn đang ngồi quanh chiếc bàn và gọi với theo mọi gã đàn ông lẫn các cậu bé đi qua. Quentyn biết chúng thuộc hội Gió Thổi. Tên đội trưởng đang tìm thêm người cho nhóm của chúng trước khi chúng lên thuyền tới Vịnh Nô Lệ. Bất cứ ai gia nhập hội của họ sẽ là một tay kiếm nữa của Yunkai, một tay kiếm nữa muốn uống máu cô dâu tương lai của ta.
Một tên trong hội Gió Thổi hét vào mặt họ. “Tôi không nói thứ tiếng của các người,” Quentyn trả lời. Dù có thể đọc và viết chữ High Valyria nhưng anh hiếm khi tập nói. Và những hậu duệ ở Volantis này đã khác quá xa tổ tiên Valyria của mình.
“Westeros?” Anh trả lời bằng tiếng phổ thông. “Chúng tôi là người Dorne. Chủ nhân của tôi là thương gia buôn rượu.”
“Chủ nhân ư? Chết tiệt, ngươi có phải nô lệ không? Hãy đi với chúng ta và trở thành chủ nhân của chính mình. Ngươi có muốn chết trên giường không? Chúng ta sẽ dạy ngươi kiếm và thương. Các người sẽ cưỡi ngựa ra trận với Hoàng Tử Rách Rưới và trở về giàu sang hơn cả một lãnh chúa. Trai, gái, vàng, muốn có gì cũng được, miễn là ngươi đủ dũng cảm để nhận lấy nó như một thằng đàn ông. Chúng ta là hội Gió Thổi, chúng ta sẽ hiếp chết ả nữ thần giết người hàng loạt đó.”
Hai tên trong số đám lính đánh thuê bắt đầu hát, chúng rống lên những lời trong
một bài hát hành quân. Quentyn hiểu được ý chính của bài hát. Chúng ta là hội Gió Thổi, chúng hát. Hãy thổi chúng ta về phương Đông tới Vịnh Nô Lệ, chúng ta sẽ giết vị vua đồ tể và hiếp nữ chúa rồng.
“Nếu Cletus và Will còn ở đây với chúng ta, chúng ta có thể trở về cùng gã to xác và giết hết bọn chúng,” Gerris nói.
Nhưng Cletus và Will đã chết. “Đừng chú ý đến họ nữa,” Quentyn nói. Tên lính đánh thuê ném những lời chế nhạo vào lưng họ khi họ đẩy cửa bước vào Nhà Lái Buôn, rằng họ là lũ quạ vô cảm và những bé gái hèn nhát.
Gã to xác đang đợi trong phòng họ trên tầng hai. Dù nhà trọ được chủ thuyền Chiền Chiện giới thiệu và ca ngợi nhưng Quentyn vẫn không muốn để đồ đạc và của cải lại mà không có người canh gác. Bến cảng nào cũng nhan nhản trộm cắp, chuột và gái điếm, và không đâu nhiều bằng ở Volantis.
“Tôi đang định đi tìm cậu,” Ser Archibald Yronwood nói khi kéo chấn song cửa đón họ vào. Cletus, em họ anh ta, là người đầu tiên gọi anh ta bằng biệt danh “to xác”, nhưng cái tên lại quá chuẩn. Arch cao gần hai mét, vai rộng, bụng to, chân như hai khúc cây lớn, hai tay như hai cái búa và cổ thì chẳng thấy đâu. Một căn bệnh hồi bé đã khiến tóc anh ta rụng hết. Chiếc đầu hói khiến Quentyn liên tưởng đến một tảng đá mòn màu hồng nhẵn thín. “Thế,” anh ta hỏi, “tên buôn lậu nói gì? Chúng ta có thuyền bè gì không?”
“Một con thuyền lớn,” Quentyn nói. “Đúng là hắn nhận chở chúng ta, nhưng đích đến sẽ là địa ngục gần nhất.”
Gerris ngồi xuống chiếc giường trũng và tháo giày ra. “Dorne lúc nào cũng thú vị hơn.”
Gã to xác nói, “Tôi vẫn nghĩ chúng ta nên đi con đường ma quái. Có thể nó không nguy hiểm như mọi người nói đâu. Và nếu có như vậy thật thì nó chỉ càng mang lại vẻ vang cho những người dám đi trên con đường đó. Ai dám quấy nhiễu chúng ta? Drink có kiếm, tôi có búa, sẽ không con quái vật nào nhai được cả.”
“Thế nhỡ Daenerys đã chết trước khi chúng ta đến nơi thì sao?” Quentyn nói. “Chúng ta phải có một con thuyền. Ngay cả khi đó là Phiêu Lưu.”
Gerris phá lên cười. “Nếu cậu có thể chịu được cái mùi đó cả mấy tháng trời thì cậu mê mệt Daenerys nhiều hơn tôi tưởng đấy. Chỉ cần ba ngày là tôi sẽ cầu xin họ giết tôi đi. Không, hoàng tử của tôi ơi, tôi xin cậu, không phải là Phiêu Lưu chứ.”
“Anh có cách nào hay hơn không?” Quentyn hỏi.
“Tôi có rồi. Giờ tôi mới nghĩ ra. Hơi nguy hiểm một chút và không cao thượng cho
lắm, phải nói thực như vậy… nhưng nó sẽ đưa cậu đến với nữ hoàng của mình nhanh hơn so với ma lộ.”
“Vậy thì nói xem nào,” Quentyn Martell nóng lòng muốn biết.