Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 28
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Không gian màu xám xịt chìm trong bóng tối, đượm mùi gỗ thông, rêu và cái lạnh. Màn sương mù mỏng lơ lửng trên mặt đất đen kịt khi dòng người cưỡi ngựa len lỏi qua lớp đá và cây cối rải rác, xuôi về phía những ngọn lửa trông như món đồ trang sức dưới đáy thung lũng. Có vô số ngọn lửa, Jon Snow không đếm được, có lẽ phải hàng trăm hàng ngàn ngọn, như một dòng sông của những đốm sáng lung linh dọc các bờ sông của Milkwater trắng như băng. Các ngón tay cậu nắm thanh gươm, hết mở ra lại nắm vào.
Họ đi xuống núi không có cờ trận hay kèn, sự im lặng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng rì rầm xa xa của con sông, tiếng vó ngựa lọc cọc, và tiếng áo giáp bằng xương của Rattleshirt kêu lách cách. Đâu đó bên trên, một con đại bàng bay vọt lên với đôi cánh to màu xám xanh, trong khi đó, bên dưới, nhóm gồm nhiều người đàn ông, chó và ngựa, cùng một con sói tuyết, vẫn tiếp tục đi.
Một hòn đá lăn xuống sườn núi, bị cản bởi móng guốc đang đi qua, và Jon thấy Bóng Ma quay đầu về phía âm thanh đột ngột đó. Bóng Ma đã đi theo dòng người cưỡi ngựa suốt cả ngày, trên đoạn đường xa lắm, giống thói quen vốn có của nó, nhưng khi mặt trăng mọc cao hơn ngọn cây thông, nó nhảy chồm lên, đôi mắt đỏ sáng rực. Những con chó của Rattleshirt chào đón Bóng Ma bằng một tràng gầm gừ và sủa điên cuồng, nhưng con sói tuyết không mảy may quan tâm đến chúng. Sáu ngày trước, con chó săn lớn nhất đã tấn công nó từ phía sau, khi đám dân du mục cắm trại nghỉ đêm, nhưng Bóng Ma quay lại và tấn công nó, khiến con chó phải bỏ chạy với vùng chân sau rớm máu. Sau cuộc đụng độ đó, những con chó còn lại trong đàn luôn giữ khoảng cách an toàn với Bóng Ma.
Ngựa của Jon Snow khẽ hí lên, nhưng khi cậu chạm vào nó và khẽ nói, con vật liền im lặng. Giá như nỗi sợ hãi của chính cậu cũng được làm dịu dễ dàng như thế. Cậu mặc toàn đồ đen, màu đen của Đội Tuần Đêm, nhưng kẻ thù của cậu cưỡi ngựa cả phía sau và phía trước. Đám dân du mục, và mình đang đi cùng bọn họ. Ygritte mặc áo khoác của Qhorin Cụt Tay. Lenyl mặc áo giáp dài, một cung thủ đi ngay dưới chân. Mũ của Qhorin bị một người đàn ông thấp, thô kệch tên là Ryk Giáo Dài giành lại, nhưng không vừa cái đầu hẹp của ông ta, vì vậy ông ta đưa mũ cho Ygritte. Rattleshirt đựng xương của Qhorin trong túi, cùng với cái đầu be bét máu của Ebben – người cùng Jon khởi hành để do thám Đèo Skirling. Chết cả rồi, bọn họ chết cả rồi, ngoại trừ mình, và mình cũng đã chết trong thế giới này.
Ygritte cưỡi ngựa ngay sau lưng cậu, còn phía trước là Ryk Giáo Dài. Lãnh chúa Xương bắt bọn họ làm lính canh cậu.
“Nếu con quạ này bay mất, ta sẽ tróc xương các ngươi,” ông ta cảnh cáo bọn họ khi họ bắt đầu lên đường, và ông ta cười nhăn nhở hở hàm răng xô lệch qua cái đầu lâu của gã khổng lồ đang đội trên đầu.
Ygritte chế giễu ông ta. “Ông muốn bảo vệ hắn không? Nếu muốn, cứ để yên cho chúng tôi làm.”
Nhưng Jon thấy có một đoàn khá đông người đi cùng. Rattleshirt có thể dẫn đầu đoàn, nhưng không một ai ngại ngùng nói chuyện với cậu.
Gã du mục đi đầu nhìn cậu chằm chằm bằng ánh mắt không mấy thân thiện. “Con quạ kia, có thể ngươi lừa phỉnh được những người khác, nhưng đừng nghĩ ngươi có thể gạt được Mance. Chỉ cần liếc nhìn ngươi một cái thôi, ông ta sẽ biết ngay là ngươi nói thật hay nói dối. Và khi ông ta liếc ngươi, ta sẽ xẻ thịt con sói của ngươi để lấy lông làm áo khoác, rạch toang bụng con sói rồi tống một con chồn vào bụng nó.”
Gươm của Jon được kéo ra rồi lại tra vào, những ngón tay anh bên trong bao tay cong lại, nhưng Ryk Giáo Dài chỉ cười huề. “Thế mày tìm đâu ra chồn trong tuyết hả?”
Đêm đầu tiên đó, sau một ngày dài cưỡi ngựa, họ cắm trại trên đỉnh một ngọn núi không tên, xúm xụm gần đống lửa khi tuyết bắt đầu rơi. Jon nhìn những bông tuyết tan ra khi chúng bay lơ lửng trên ngọn lửa. Dù mặc cả áo len, lông và da, nhưng cậu vẫn thấy lạnh đến thấu xương. Ygritte ngồi bên cạnh cậu sau khi cô ta ăn xong, mũ trùm được kéo lên và hai tay cô ta thọc vào ống tay áo cho ấm. “Khi Mance nghe được việc anh làm với Cụt Tay, ông ta sẽ giữ anh ngay,” cô nói.
“Giữ tôi làm gì?”
Cô cười vẻ khinh miệt. “Thay cho một trong số chúng tôi. Anh không nghĩ anh là con quạ đầu tiên bay ra khỏi Tường Thành à? Tôi biết lòng dạ anh cháy bỏng ước muốn được tự do bay đi mà.”
“Và khi tôi tự do,” anh nói chậm rãi, “tôi có được tự do ra đi không?”
“Chắc chắn là có.” Cô ta có nụ cười ấm áp, mặc dù răng hơi khấp khểnh. “Chúng tôi cũng sẽ tự do giết anh. Được tự do nguy hiểm lắm, nhưng ai cũng thích hương vị của nó.” Cô ta đặt bàn tay đeo găng lên đùi cậu, ngay phía trên đầu gối. “Rồi anh sẽ thấy.”
Tôi sẽ thấy chứ, Jon thầm nghĩ. Tôi sẽ thấy, sẽ nghe, và học, và khi được, tôi sẽ đưa tin về Tường Thành. Đám dân du mục bắt cậu phá lời thề, nhưng tận sâu trong đáy lòng, cậu vẫn là người của Đội Tuần Đêm, và thực hiện bổn phận cuối cùng mà Qhorin Cụt Tay đã trao cho cậu. Trước khi mình giết ông ấy.
Dưới đáy dốc, họ đến gần một con suối nhỏ chảy xuống từ chân núi để hòa vào dòng Milkwater. Trông con suối toàn đá và băng, mặc dù bọn họ nghe thấy tiếng nước chảy bên dưới mặt nước đóng băng. Rattleshirt dẫn bọn họ băng suối, làm vỡ tan lớp băng mỏng.
Người cưỡi ngựa mở đường của Mance Rayder đến gần khi bọn họ xuất hiện. Jon liếc nhìn ước chừng lực lượng của họ: tám tay cưỡi ngựa, cả đàn ông và đàn bà, họ đều mặc áo lông thú và da thuộc, có người đội mũ hoặc mặc áo giáp. Họ được trang bị giáo và thương đã được nung qua lửa, trừ người đi đầu, một người đàn ông tóc vàng với đôi mắt ướt, ông ta cầm một chiếc hái cong lớn làm bằng thép bén. Gã Mít Ướt, anh nhận ra ngay lập tức. Các anh em áo đen đã kể cho nhau nghe nhiều chuyện về người này. Giống như Rattleshirt, Harma Đầu Chó và Alfyn Crowkiller, ông ta là một tay cưỡi ngựa nổi tiếng.
“Lãnh chúa Xương,” Gã Mít Ướt nói khi ông ta thấy bọn họ. Ông ta quắc mắt nhìn Jon và con sói tuyết của cậu. “Ai kia?”
“Một con quạ,” Rattleshirt nói – ông ta thích được gọi là Lãnh chúa Xương, do chiếc áo giáp kêu loảng xoảng của ông ta. “Nó sợ tôi cũng tróc xương nó như tróc xương Cụt Tay.” Ông ta lắc lắc túi đựng chiến lợi phẩm với những tên du mục khác.
“Chính nó giết chết Qhorin Cụt Tay,” Ryk Giáo Dài nói. “Nó và con sói của nó.”
“Và nó cũng làm vậy với Orell nữa,” Rattleshirt nói.
“Cậu chàng này là một người biến hình, hay cũng gần gần thế,” Ragwyle nói. “Con sói của cậu ta ngoạm một miếng chân của Cụt Tay đấy.”
Đôi mắt ướt của gã Mít Ướt lại liếc nhìn Jon. “Thật sao? Hừm, giờ nhìn rõ, ta thấy cậu ta có một con sói đi bên cạnh. Đưa cậu ta đến gặp Mance, có thể ngài ấy sẽ giữ cậu ta lại.” Ông ta xoay ngựa và phóng nước đại đi, nhóm người cưỡi ngựa của ông ta chạy miết phía sau.
Gió thổi mang theo cái ẩm ướt và cảm giác ảm đạm khi họ băng thung lũng của Milkwater và cưỡi hàng một qua lán trại trên sông. Bóng Ma vẫn đi sát Jon, nhưng sự thính hơi của con sói giống như một dấu hiệu, và chẳng mấy chốc, xung quanh họ nào là đám man di, nào là chó thi nhau gầm gừ và sủa ăng ẳng. Lenyl quát cho đàn chó im lặng, nhưng bọn chúng không đoái hoài gì đến hắn. “Chúng không nghe lời vì con quái thú của ngươi đấy,” Ryk Giáo Dài nói.
“Chúng là chó, còn Bóng Ma là chó sói” Jon nói. “Bọn chúng biết nó không cùng chủng loại.” Cũng giống như ta với ngươi vậy. Nhưng cậu có nhiệm vụ cần hoàn thành, đó là nhiệm vụ mà Qhorin đã đặt lên vai cậu khi lần cuối cùng họ ngồi với nhau bên đống lửa – trà trộn trong đám du mục và tìm hiểu xem bọn họ đang tìm kiếm cái gì tại nơi hoang tàn lạnh giá ảm đạm của Frostfangs.
“Một chút quyền lực,” Qhorin đã nói với Gấu Già như vậy, nhưng ông ta đã chết trước khi biết bọn họ tìm kiếm gì, hay liệu Mance Rayder đã tìm được cái đó bằng việc đào xới lung tung chưa.
Dọc con sông là những đống lửa để đun nấu, giữa vô số xe ngựa và xe trượt tuyết. Rất nhiều tên du mục đã kéo lều lên, lều được làm bằng da sống, vỏ cây và len không rút. Những người khác trú ngụ sau các tảng đá trong những mái che tạm bợ, hoặc ngủ bên dưới xe ngựa. Bên một đống lửa, Jon thấy một người đàn ông đang tôi mũi những ngọn giáo dài và vứt thành đống. Chỗ khác, hai tên có râu mặc da thuộc đang tập luyện, lao vào nhau qua ngọn lửa, và càu nhàu mỗi khi người kia ra được đòn. Bên cạnh, khoảng chục người phụ nữ ngồi thành hình tròn và vót mũi tên.
Mũi tên cho anh em của ta, Jon thầm nghĩ. Mũi tên cho đoàn quân của cha ta, cho người dân ở Winterfell và Deepwood Motte và Last Hearth. Mũi tên cho phương bắc.
Nhưng không phải nơi đâu cậu nhìn thấy cũng là hình ảnh của chiến tranh. Cậu thấy những người phụ nữ đang nhảy múa, nghe thấy một em bé đang khóc, và một cậu bé con chạy ngay phía trước con ngựa của cậu, tất cả bọn họ đều mặc da lông thú và chơi đùa vui vẻ. Cừu và dê đi lang thang khắp nơi, trong khi bò chậm chạp đi tìm cỏ trên bờ sông. Mùi thịt cừu nướng tỏa ra từ một bếp lửa, và ở bếp lửa khác, cậu thấy một con lợn lòi đang được quay trên xiên.
Trong một khoảng trống mà xung quanh được vây bọc bởi những cây thông cao vút, Rattleshirt xuống ngựa. “Chúng ta cắm trại ở đây,” ông ta nói với Lenyl, Ragwyle và những người khác. “Cho lũ ngựa và chó ăn, và các ngươi cũng ăn đi. Ygritte, Giáo Dài, đưa con quạ này đến gặp Mance để ngài xem mặt cậu ta. Sau đó chúng ta sẽ cho cậu ta ăn sau.”
Trên đoạn đường còn lại, bọn họ đi bộ ngang qua nhiều bếp lửa và nhiều lều trại hơn, Bóng Ma đi ngay sau gót họ. Jon chưa bao giờ nhìn thấy nhiều tên du mục đến thế. Cậu tự hỏi liệu có ai từng nhìn thấy nhiều du mục thế này chưa. Các lán trại cứ dài mãi, lán sau có vẻ dễ bị tấn công hơn cái trước. Đóng quân dàn trải như vậy, đám du mục không có sự phòng vệ, không có hố bẫy, cũng không có cọc nhọn, chỉ có các nhóm nhỏ đi tuần quanh vòng ngoài của lán trại. Mỗi nhóm dừng lại ở bất cứ đâu bọn họ muốn, ngay khi bọn họ thấy nhóm khác dừng lại hoặc tìm thấy một địa điểm thích hợp. Đám người tự do. Nếu các anh em của cậu nhìn thấy những người này trong tình cảnh hỗn độn thế này, rất nhiều người trong số họ sẽ đổi máu để lấy sự tự do đó. Bọn họ có vô số người, nhưng Đội Tuần Đêm có kỷ luật, và khi chiến đấu, kỷ luật hạ gục con số, chín trong mười lần là thế, có lần cha đã nói vậy với cậu như vậy.
Không cần hồ nghi đâu là lều của Lãnh chúa Hoster. Căn lều ấy to gấp ba lần căn lều lớn nhất gần kề mà cậu thấy, và cậu nghe tiếng nhạc vọng ra từ trong lều. Giống như rất nhiều những túp lều nhỏ hơn khác, căn lều này được làm bằng da sống được khâu cùng da thú, nhưng da sống làm lều của Mance Rayder là các tấm da còn lông trắng xù xì của gấu tuyết. Mái lều có chóp nhọn được đặt một bộ gạc lớn của loài nai sừng tấm từng có thời tự do đi lại khắp Bảy Phụ Quốc, trong thời kì của Tiền Nhân.
Ở đây, ít nhất bọn họ cũng thấy người bảo vệ; hai lính canh ngoài cửa lều, đang tựa người lên những cây giáo cao, khiên da được cột vào tay họ. Khi bọn họ nhìn thấy Bóng Ma, một người hạ thấp mũi giáo và nói, “Con thú phải ở ngoài này.”
“Bóng Ma, ở lại đây,” Jon ra lệnh. Con sói ngồi xuống.
“Giáo Dài, canh chừng con thú.” Rattleshirt kéo mạnh cửa lều và ra hiệu cho Jon và Ygritte vào trong.
Túp lều nóng và đầy khói. Các thùng than bùn đang cháy được đặt khắp bốn góc lều, phủ lên không khí ánh lửa đỏ mập mờ. Nền đất được trải nhiều da lông thú hơn. Jon cảm thấy vô cùng đơn độc khi cậu đứng đó trong bộ đồ đen, chờ đợi vinh dự được diện kiến người tự phong cho mình là Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành. Khi mắt đã quen dần với không khí ảm đạm đỏ rực đầy khói, cậu nhìn thấy sáu người, và không một ai để ý gì đến cậu. Một người đàn ông trẻ tuổi, da đen và một người phụ nữ tóc vàng xinh đẹp đang cùng uống rượu mật ong. Một người phụ nữ mang bầu đứng bên lò than nướng hai con gà, trong khi người đàn ông tóc xám mặc áo rách rưới màu đỏ đen ngồi bắt chéo chân trên gối, thổi đàn luýt và hát:
Vợ của người xứ Dorne đẹp như ánh mặt trời,
Nụ hôn của nàng ấm áp hơn mùa xuân.
Nhưng lưỡi gươm của người xứ Dorne làm bằng thép đen,
Và nụ hôn của nó vô cùng đáng sợ.
Jon biết bài hát này, mặc dù nghe thấy bài hát ở đây – trong một túp lều bờm xờm cách xa Tường Thành – quả là kỳ lạ, khi nơi đây cách những ngọn núi đỏ và những cơn gió ấm áp của Dorne cả chục ngàn dặm.
Rattleshirt bỏ cái mũ nhuộm vàng xuống khi đợi bài hát kết thúc. Bên dưới chiếc áo giáp xương-và-da, ông ta nhỏ nhắn, và nét mặt bên dưới cái đầu lâu khổng lồ rất đỗi bình thường, với chiếc cằm nhỏ, râu mỏng, và hai má hõm vàng vọt. Mắt ông ta rất gần nhau, một vành lông mày chạy thẳng ngang trán, mái tóc đen được cạo thành chỏm hình chữ V giữa trán.
Vợ của người xứ Dorne ca hát khi đang tắm,
Bằng giọng hát vô cùng ngọt ngào.
Lưỡi gươm của người xứ Dorne cũng có bài ca riêng,
Sắc bén và lạnh lùng như một kẻ hút máu.
Bên cạnh lò than, một người đàn ông thấp, nhưng cực kỳ to lớn ngồi trên ghế đẩu gặm một con gà. Mỡ nóng chảy xuống cằm ông ta và dính vào bộ ria trắng như tuyết, nhưng nụ cười vô cùng rạng rỡ. Những dải băng dày cộp bằng vàng, khắc dấu hiệu ma thuật được quấn quanh đôi cánh tay lực lưỡng của ông ta, và ông ta mặc áo giáp sắt đen chắc chắn chỉ có thể thuộc về một người đi rừng đã chết. Cách đó vài mét, một người đàn ông cao hơn, thanh mảnh hơn mặc áo da xâu lẫn vảy bạc đang đứng chau mày nhìn một tấm bản đồ, hai thanh gươm lớn cầm bằng hai tay treo lủng lẳng sau lưng ông ta, trong một bao da. Ông ta đứng thẳng như một cây giáo, cơ bắp dẻo dai, râu ria cạo sạch, hói đầu, mũi thẳng và mắt sâu. Thậm chí trông ông ta còn có vẻ bình thường nếu như ông ta có tai, nhưng cả hai tai ông ta đều đâu mất, do bị hoại tử vì tê cóng hay vì lưỡi dao của kẻ thù, Jon cũng không biết được. Thiếu đôi tai, trông đầu ông ta có vẻ hẹp và nhọn.
Cả người đàn ông râu trắng và gã hói đều từng là chiến binh, chỉ cần liếc nhìn Jon cũng thấy rõ như vậy. Hai người này nguy hiểm hơn Rattleshirt nhiều. Cậu tự hỏi ai là Mance Rayder.
Khi anh nằm trên mặt đất, nếm được vị máu nơi đầu lưỡi,
Các anh em quỳ gối bên cạnh anh, và cầu nguyện,
Anh mỉm cười và anh hát,
“Các anh em, hỡi các anh em, thời kỳ của chúng ta đã hết, người xứ Dorne đã lấy cuộc đời của ta, nhưng như thế cũng không quan trọng, vì ai ai cũng phải chết, và ta đã được thưởng thức cô vợ của gã rồi!”
Khi khúc nhạc cuối cùng của bài hát “Vợ người xứ Dorne” kết thúc, người đàn ông hói đầu cụt tai rời mắt khỏi bản đồ và giận dữ quắc mắc vẻ hung ác với Rattleshirt và Ygritte, còn Jon đứng giữa hai người họ. “Gì đây?” ông ta nói. “Một con quạ?”
“Là gã con hoang mặc đồ đen đã moi ruột Orell,” Rattleshirt nói, “và cũng là một người biến hình.”
“Hai ngươi có nhiệm vụ giết hết bọn chúng.”
“Người này đã đến,” Ygritte giải thích. “Anh ta tự tay giết Qhorin.”
“Thằng nhóc này sao?” người đàn ông không tai tức giận trước tin này. “Cụt Tay đáng ra phải là của ta. Con quạ kia, ngươi có tên không?”
“Thưa bệ hạ, Jon Snow.” Cậu tự hỏi liệu ông ta có chờ cậu quỳ gối không.
“Bệ hạ?” Gã không tai nhìn sang gã râu trắng. “Ngươi có nghe thấy không? Cậu ta nghĩ ta là vua cơ đấy.”
Gã râu trắng cười như nắc nẻ, đến mức làm bắn thịt gà vung vãi. Ông ta lấy mu bàn tay to tướng quệt mỡ trên miệng. “Thằng nhóc này chắc mù rồi. Đã ai nghe nói về một ông vua bị cụt tai chưa? Tại sao ư, vì như thế thì vương miện của ông ta sẽ trôi tuột xuống cổ! Ha ha!” Ông ta cười toe toét với Jon và lau các ngón tay vào mông quần cho sạch. “Quạ kia, khép mỏ lại đi. Xoay người ngươi nữa, biết đâu ngươi sẽ tìm thấy người mà ngươi đang tìm kiếm.”
Jon quay người lại.
Người ca sĩ đứng lên. “Ta là Mance Rayder,” ông ta nói khi đặt đàn luýt sang bên. “Còn ngươi là con hoang của Ned Stark, họ Snow ở Winterfell.”
Sửng sốt, Jon nói không lên lời trong một khoảnh khắc, trước khi anh lấy lại bình tĩnh, “Làm sao… làm sao ngài biết…”
“Chuyện đó để sau,” Mance Rayder nói. “Cậu bé, cậu thích bài hát này không?”
“Thích lắm. Trước tôi đã nghe rồi.”
“Nhưng có quan trọng không, vì ai ai cũng phải chết,” Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành khẽ nói, “và ta đã từng được thưởng thức cô vợ của gã người Dorne rồi. Nói cho ta nghe, Lãnh chúa Xương của ta nói có thật không? Có phải ngươi đã giết ông bạn cũ Cụt Tay của ta không?”
“Phải.” Mặc dù đó là hành động của ông ta, hơn là của tôi.
“Thế thì Tháp Đêm sẽ chẳng còn đáng sợ nữa,” vị vua nói với giọng u buồn. “Qhorin là kẻ thù của ta. Nhưng cũng từng là anh em của ta. Vì vậy… ta có nên cám ơn ngươi vì đã giết ông ta không, Jon Snow? Hay ta nên nguyền rủa ngươi?” Ông ta nhìn Jon, cười mỉa mai.
Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành trông không giống một vị vua, nhưng cũng không giống một tên du mục. Ông ta có chiều cao trung bình, khuôn mặt góc cạnh, với đôi mắt nâu sắc sảo và mái tóc nâu dài đang chuyển bạc. Trên đầu ông ta không có vương miện, tay không đeo vòng vàng, cổ không đeo trang sức, thậm chí bạc cũng không. Ông ta mặc đồ len và da, và mảnh vải duy nhất trên người ông ta là một chiếc áo khoác len màu đen rách rưới, những chỗ rách dài được vá bằng lụa đỏ đã phai màu.
“Ngài nên cám ơn tôi vì đã giết chết kẻ thù của ngài,” sau cùng Jon nói, “và nguyền rủa tôi vì đã giết bạn ngài.”
“Ha ha!” người đàn ông râu trắng cười vang. “Trả lời hay lắm!”
“Đồng ý.” Mance Rayder vẫy tay ra hiệu cho Jon đến gần hơn. “Nếu ngươi gia nhập đội chúng ta, ngươi sẽ hiểu chúng ta nhất. Người đàn ông mà ngươi nhầm với ta là Styr, Magnar vùng Therm. Magnar nghĩa là ‘lãnh chúa’ trong Cổ Ngữ.” Người đàn ông không tai lạnh lùng nhìn Jon rồi nhìn người đàn ông râu trắng. “Người ăn thịt gà hùng hục kia là Tormund trung thành của ta. Người phụ nữ…”
Tormund đứng lên. “Từ từ đã. Ngài nêu rõ tước hiệu của Styr rồi, ngài phải nói rõ danh hiệu của tôi nữa.”
Mance Rayder cười ồ. “Nếu ngươi muốn. Jon Snow này, trước mặt ngươi là Tormund Người Khổng lồ, Cao-kều-ba-hoa, Người-thổi-tù-và và Người-phá-vỡ-mạn-thuyền. Và ông ta cũng là Tormund Nắm Đấm Sét, Chồng của Gấu, Vua-rượu-mật-ong của Ruddy Hall, Người phát ngôn của Thánh Thần và Cha của Quỷ Dữ.”
“Như thế nghe giống tôi hơn rồi,” Tormund nói. “Jon Snow, rất vui được gặp cậu. Ta rất ưa mấy gã biến hình, mặc dù không ưa Nhà Stark lắm.”
“Cô gái xinh đẹp bên cạnh lò than kia,” Mance Rayder nói tiếp, “là Dalla.” Người phụ nữ mang bầu bẽn lẽn mỉm cười. “Hãy cư xử với nàng như ngươi cư xử với một nữ hoàng, nàng ấy đang mang thai đứa con của ta.” Ông ta quay sang hai người còn lại. “Cô nàng yêu kiều này là em gái Val của nàng ấy. Cô bé Jarl trẻ trung bên cạnh là em út cưng của nàng.”
“Em không phải bé cưng của ai hết,” Jarl nói, giọng giận dữ và khó chịu.
“Và Val cũng thế,” Tormund râu trắng khịt mũi. “Đến giờ ngươi phải nhận ra điều đó, nhóc ạ.”
“Jon Snow, vậy là cậu biết hết chúng ta rồi,” Mance Rayder nói. “Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành và cung điện của ngài, là thế này đây. Giờ đến lượt ngươi nói đôi lời, ta nghĩ là vậy. Ngươi đến từ đâu?”
“Winterfell,” cậu nói, “bằng lối Hắc Thành.”
“Và điều gì đưa ngươi lên Milkwater này, khi mà nơi đây cách xa nhà ngươi đến vậy?” Ông ta không đợi Jon trả lời, mà nhìn Rattleshirt ngay lập tức. “Bọn họ có bao nhiêu người?”
“Năm. Ba đã chết và cậu ta ở đây. Tên còn lại leo lên sườn núi, ngựa không chạy theo được.”
Mắt Rayder lại gặp mắt Jon. “Có phải các ngươi chỉ có năm người không? Hay còn nhiều anh em khác của ngươi đang lẩn tránh đâu đó?”
“Chúng tôi có bốn người, và Cụt Tay nữa. Qhorin giỏi bằng hai mươi người bình thường.”
Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành cười khi nghe đến đó. “Điều đó cần phải nghĩ lại. Dù vậy… một thằng nhóc đến từ Hắc Thành với người đi rừng từ Tháp Đêm ư? Làm sao lại như thế được?”
Jon đã chuẩn bị sẵn lời nói dối. “Tướng chỉ huy cử tôi đi theo Cụt Tay để học hỏi kinh nghiệm, vì vậy ông ta đưa tôi đi rừng cùng.”
Magnar Styr cau mày khi nghe Jon nói. “Đi rừng, lại như vậy… làm sao quạ lại đi rừng ở tận Đèo Skirling được?”
“Các ngôi làng bị bỏ hoang,” Jon nói, rất chân thành. “Có vẻ như tất cả người dân đều biến mất.”
“Biến mất, à ừ,” Mance Rayder nói. “Và không chỉ là người dân. Jon Snow, ai nói cho ngươi biết chúng ta ở đây?”
Tormund khịt mũi. “Chính là Craster, nếu không tôi là một thiếu nữ biết đỏ mặt. Mance à, tôi nói với ngài rồi, kẻ đó đáng bị chặt đầu cho thấp bớt đi.”
Nhắc đến vị vua này khiến cho người đàn ông già có vẻ khó chịu. “Tormund, chịu khó uốn lưỡi bảy lần trước khi nói đi. Ta biết rõ đó là Craster rồi. Ta chỉ hỏi Jon xem cậu ta có nói thật không thôi.”
“Ha.” Tormund đập tay. “Ừm, tôi lại chen ngang rồi!” Ông ta cười khì với Jon. “Thằng nhóc, thấy chưa, đó là lý do ông ấy là vua, còn ta thì không. Ta uống nhiều hơn, đánh nhau giỏi hơn, hát to hơn, và to lớn gấp ba ông ấy, nhưng Mance láu cá lắm. Ngươi biết không, ông ấy nuôi một con quạ, và quạ là loài chim gian xảo lắm.”
“Lãnh chúa Xương, ngươi nên nói điều đó riêng với cậu ta,” Mance Rayder nói với Rattleshirt. “Các ngươi ra ngoài, để chúng ta nói chuyện riêng.”
“Sao cơ, cả tôi nữa à?” Tormund nói.
“Không, ngươi thì không,” Mance nói.
“Tôi không ăn ở nơi tôi không được chào đón.” Tormund đứng lên. “Tôi và mấy con gà này ra ngoài đây.” Ông ta túm lấy một con gà khác trên bếp, dúi nó vào túi được khâu trên áo khoác và nói, “Ha,” rồi vừa bước đi vừa liếm các ngón tay. Những người khác cũng theo ông ta ra ngoài, trừ Dalla.
“Ngồi xuống đi, nếu ngươi muốn,” Rayder nói khi bọn họ đi hết. “Ngươi đói không? Tormund để lại cho chúng ta ít nhất là hai con gà.”
“Thưa bệ hạ, tôi rất vinh hạnh. Và cám ơn ngài.”
“Bệ hạ ư?” Vị vua mỉm cười. “Đó không phải là tước vị mà một người thường được nghe người dân tự do gọi. Với hầu hết mọi người, ta là Mance, một số người gọi ta là ngài Mance. Ngươi uống rượu mật ong chứ?”
“Rất vui lòng,” Jon nói.
Vị vua rót rượu cho mình khi Dalla cắt đôi con gà được nướng giòn tan và đưa cho mỗi người một nửa. Jon tháo găng tay và dùng tay ăn gà, cậu mút máp từng thớ thịt gà khỏi xương.
“Tormund nói đúng lắm,” Mance Rayder nói khi ông ta xé toạc một ổ bánh mỳ. “Quạ đen đúng là loài chim gian xảo… nhưng ta từng là một con quạ khi ngươi mới chỉ lớn bằng đứa bé trong bụng Dalla, Jon Snow. Vì vậy, cẩn thận đừng giở trò gian xảo với ta.”
“Theo ý ngài, thưa đức Mance.”
Vị vua cười ồ. “Đức Mance! Tại sao không nhỉ? Lúc trước ta hứa sẽ kể cho ngươi nghe chuyện làm sao ta biết ngươi. Ngươi đã biết chưa?”
Jon lắc đầu. “Rattleshirt gửi thư trước cho ngài sao?”
“Bằng quạ đưa tin à? Không, chúng ta không huấn luyện quạ đưa tin. Không, ta biết mặt ngươi từ lâu rồi. Ta đã từng nhìn thấy ngươi. Hai lần.”
Ban đầu Jon không hiểu gì, nhưng khi suy nghĩ kĩ, Jon mới vỡ lẽ. “Khi ngài là anh em của Đội Tuần Đêm…”
“Giỏi lắm! Đúng, đó là lần đầu tiên. Hồi đó, ngươi mới chỉ là một cậu bé con, còn ta mặc toàn đồ đen, là một trong số hàng chục người cưỡi ngựa hộ tống Tướng chỉ huy Qorgyle khi ngài đến gặp cha ngươi tại Winterfell. Lúc ta đang đi quanh sân thì gặp ngươi và anh trai Robb của ngươi. Đêm trước hôm đó tuyết rơi, hai anh em ngươi đã dựng một ngọn núi tuyết lớn trên cổng và đợi có người đi qua bên dưới ngọn núi đó.”
“Tôi còn nhớ,” Jon nói và nở nụ cười sửng sốt. Một người anh em trẻ tuổi, mặc đồ đen đi trên bục công sự, đúng rồi… “Ngài đã thề không nói gì.”
“Và ta vẫn giữ lời thề. Ít nhất là lời thề đó.”
“Chúng tôi xô tuyết vào bác Tom Bự. Ông là cận vệ chậm chạp nhất của cha.” Sau đó, bác Tom rượt theo hai anh em họ quanh sân, cho đến khi cả ba người đỏ rực lên như táo chín. “Nhưng ngài nói ngài đã thấy tôi hai lần. Lần khác là khi nào?”
“Khi vua Robert đến Winterfell để phong cho cha ngươi làm quân sư của ngài ấy,” Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành khẽ nói.
Đôi mắt Jon mở to vẻ không tin. “Không thể nào.”
“Có thể chứ. Khi cha ngươi biết đức vua đang đến, ông ấy chuyển lời đến ông chú Benjen của ngươi ở Tường Thành, để mời ông ấy đến ăn tiệc. Giữa các anh em mặc đồ đen và người dân có nhiều sự giao thiệp hơn ngươi tưởng, và chẳng mấy chốc, ta cũng biết tin đó. Một cơ hội quá tuyệt ta không thể cưỡng lại được. Chú ngươi không biết mặt ta, vì vậy ta không e ngại ông ta, và ta cũng cho rằng cha ngươi khó lòng nào nhớ mặt một gã trẻ tuổi mà ông ta đã gặp sơ sơ từ nhiều năm trước. Ta muốn mục sở thị ông vua Robert này, vua với vua, và ước lượng sức mạnh của ông chú Benjen của ngươi nữa. Hồi đó, ông ta là Lính Biệt Kích Rừng đầu tiên, và là tai họa của tất cả người dân của ta. Vậy là ta thắng con ngựa giỏi nhất và lên đường.”
“Nhưng,” Jon phản đối, “Tường Thành…”
“Tường Thành có thể ngăn cản đội quân của ta, nhưng không ngăn cản một người đàn ông đơn thương độc mã. Ta mang theo một cây đàn luýt và một túi bạc, leo lên băng gần Long Barrow, đi bộ vài dặm từ phía nam của New Gift, và mua một con ngựa. Nói chung, ta tận dụng thời gian tốt hơn Robert, khi ông ta phải đi bằng xe ngựa lớn, chậm chạp để bà hoàng được êm ái dễ chịu. Khi tới phía nam của Winterfell, ta gặp ông ta và hòa vào cùng đoàn. Những người cưỡi ngựa tự do và kỵ sĩ vòng ngoài luôn luôn tự gia nhập vào các đám diễu hành hoàng gia, với hy vọng được phục vụ nhà vua, và cây đàn luýt giúp ta được chấp thuận dễ dàng.” Ông ta cười. “Ta biết mọi bài hát hài hước thô thiển trên đời này, dù là bài hát ở phương bắc hay phương nam của Tường Thành. Nơi ở của ngươi. Đêm mà cha ngươi mở tiệc đãi Robert, ta ngồi phía sau sảnh của ông ta, trên một chiếc ghế cùng với những người cưỡi ngựa tự do khác, lắng nghe Orland ở Oldtown chơi đàn hạc cao và hát về những vị vua đã chết bên dưới biển. Ta chú ý quan sát thịt và rượu mật ong của cha ngươi, ta cũng quan sát Sát Vương và Quỷ Lùn… lưu tâm đến tất cả con cái của Lãnh chúa Eddard và những con sói tuyết chạy dưới gót chân chúng.”
“Bael Thi Sĩ,” Jon nói và nhớ đến câu chuyện mà Ygritte để cho cậu nghe ở Frostfangs, đúng vào đêm mà cậu suýt giết chết cô ta.
“Hồi đó ta cũng thế. Ta không phủ nhận, rằng thành tích của Bael cũng truyền cảm hứng cho chính ta… nhưng ta không lẻn đi với một trong số các chị em gái của ngươi. Bael sáng tác bài hát của riêng ông ta, và những bài hát đó sống đến tận ngày nay. Ta chỉ hát những bài hát mà những người đàn ông giỏi hơn đã sáng tác ra. Thêm rượu không?”
“Không,” Jon nói. “Nếu ông bị phát hiện… bị bắt…”
“Chắc chắn cha ngươi sẽ chém đầu ta ngay.” Vị vua nhún vai. “Mặc dù một khi ta được ăn trên bàn ăn của ông ta, ta được bảo vệ bởi quyền của khách. Luật lệ về sự hiếu khách có từ thời Tiền Nhân, và thiêng liêng như cây mặt người.” Ông ra hiệu về phía bàn ăn giữa hai người bọn họ, trên đó có ổ bánh mỳ đã xé và xương gà. “Ở đây, ngươi là khách, và an toàn trước hiểm nguy… ít nhất là đêm nay. Vì vậy, Jon Snow, hãy thành thật với ta. Có phải ngươi là quạ đưa tin thay áo choàng, vì sợ hãi hay còn lý do nào khác đưa ngươi đến lều của ta?”
Dù là quyền của khách hay không, Jon Snow cũng biết rằng đến đây tức là cậu đã bước đi trên lớp băng mỏng manh. Chỉ cần sai một bước, cậu sẽ bị lao xuống làn nước lạnh giá, đủ để tim cậu ngừng đập. Cẩn trọng cân nhắc từng lời trước khi nói, cậu tự nhủ. Cậu hớp một hơi rượu thật dài để tận dụng thời gian cân nhắc câu trả lời. Khi đặt sừng đựng rượu sang bên cạnh, cậu đáp lời, “Ngài hãy nói với tôi lý do tại sao ngài đổi áo, và tôi sẽ nói cho ngài biết lý do của tôi.”
Mance Rayder cười khẽ, đúng như Jon mong đợi. Vị vua này chỉ đơn thuần giỏi huyên thuyên này nọ. “Chắc chắn rồi ngươi sẽ được nghe câu chuyện tại sao ta đào ngũ.”
“Có người nói là vì vương miện. Có người nói vì đàn bà. Người khác sẽ nói ngài có dòng máu của dân du mục.”
“Máu du mục là máu của Tiền Nhân, cũng là dòng máu đang chảy trong huyết quản của Nhà Stark. Nói về vương miện, ngươi thấy ta có chiếc vương miện nào không?”
“Tôi thấy một người phụ nữ.” Cậu liếc sang Dalla.
Mance cầm tay cô ta và kéo lại gần mình. “Phu nhân của ta ngoài cuộc nhé. Ta gặp nàng trên đường trở lại lâu đài của cha ngươi. Cụt Tay là người sắt đá, nhưng ta là người bằng da bằng thịt, và ta say mê vẻ duyên dáng của phụ nữ… và điều đó có nghĩa ta cũng giống ba phần tư đàn ông trong Đội Tuần Đêm. Có những người đàn ông vẫn mặc đồ đen nhưng lại có số đàn bà gấp mười lần lão vua nghèo này đây. Jon Snow, ngươi lại phải đoán tiếp rồi.”
Jon cân nhắc một giây. “Cụt Tay nói ngài có niềm say mê đặc biệt với âm nhạc của người du mục.”
“Trước đây. Và giờ vẫn thế. Đúng rồi, gần trúng mục tiêu rồi đấy. Nhưng chưa chính xác.” Mance Rayder đứng lên, cởi móc gài áo và vắt lên ghế. “Vì cái này đây.”
“Một chiếc áo choàng sao?”
“Áo choàng len đen của Lời Tuyên Thệ Đội Tuần đêm,” Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành nói. “Một hôm, trong buổi đi rừng, chúng ta bắt được một con nai sừng tấm to, đẹp lắm. Chúng ta lột da nó khi mùi máu của nó khiến một con mèo ma chui ra khỏi hang. Ta xua nó đi, nhưng nó nhanh chóng xé toạc áo choàng của ta thành các mảnh nhỏ. Ngươi thấy không? Đây, đây và đây nữa?” Ông ta cười thầm. “Nó cào toạc lưng và tay ta, máu chảy máu còn nhiều hơn cả lũ hươu nữa. Các anh em sợ ta sẽ chết trước khi họ đưa ta trở về cho Maester Mullin chữa trị tại Tháp Đêm, vì vậy, họ đưa ta đến ngôi làng của dân du mục – chúng ta biết ở đó có một người phụ nữ giỏi giang biết chữa thương. Bà ấy chết rồi, nhưng con gái bà nhìn thấy vết thương của ta. Cô ta lau sạch vết thương, rồi khâu lại, cho ta ăn cháo và uống thuốc đến khi ta khỏe trở lại, đủ để cưỡi ngựa. Và cô ấy cũng vá lại áo cho ta nữa, bằng loại lụa đỏ tươi của vùng Asshai mà bà cô ấy lấy được từ trên chiếc tàu bị trôi giạt trên bờ Frozen Shore. Đó là thứ tài sản lớn nhất của cô ấy, và cũng là món quà cô ấy dành cho ta.” Ông ta lại khoác chiếc áo lên vai. “Nhưng ở Tháp Đêm, ta được giao cho một chiếc áo len mới, toàn một màu đen, được cắt đẹp mắt, cho cùng tông với quần đen, giày đen, áo chẽn đen và áo giáp đen của ta. Chiếc áo khoác mới không bị mòn, không bị sờn, không bị rách, không bị toạc… và hơn hết, là không có màu đỏ. Anh em của Đội Tuần Đêm mặc toàn bộ đồ màu đen, và Ser Denys Maillister đã nghiêm nghị nhắc nhở ta, như thể ta đã quên. Đến lúc đốt chiếc áo cũ của ngươi rồi, ông ta nói vậy.
Sáng hôm sau, ta bỏ đi… đến một nơi mà ta biết rằng một nụ hôn không phải là tội ác, và một người đàn ông có thể mặc bất cứ loại áo khoác nào anh ta muốn.” Ông ta gài khóa vào và ngồi xuống. “Còn ngươi thì sao, Jon Snow?”
Jon lại hớp một ngụm rượu nữa. Chỉ có một chuyện khiến ông ta tin. “Ngài nói ngài đã ở Winterfell, vào buổi tối mà cha tôi thết tiệc vua Robert.”
“Ta đã nói vậy, và đúng là như vậy.”
“Vậy thì chắc chắn ngài nhìn thấy tất cả chúng tôi. Hoàng tử Joffrey và Tommen, công chúa Myrcella, anh trai Robb, em trai Bran và Rickon, em gái Arya và Sansa của tôi. Ngài thấy bọn họ đi lối đi giữa, ai ai cũng nhìn ngắm bọn họ, và bọn họ ngồi trên ghế cạnh chiếc bàn ngay dưới bục ngự trị của vua và hoàng hậu.”
“Ta vẫn còn nhớ.”
“Mance, ngài có thấy tôi được xếp ngồi đâu không?” cậu nhoài người ra trước. “Ngài có biết bọn họ xếp cho thằng con hoang ngồi đâu không?”
Mance Rayder nhìn Jon một lúc lâu. “Ta nghĩ tốt nhất là chúng ta nên tìm cho ngươi một chiếc áo choàng mới,” vị vua nói và đưa hai tay ra trước.