Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 28
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Ông quan sát cánh buồm hồi lâu, quyết định xem liệu mình sẽ sớm được sống hay chết.
Chết sẽ dễ dàng hơn, ông biết điều đó. Ông chỉ cần chui vào hang và để con thuyền lướt qua, tử thần sẽ đến bên ông. Nhiều ngày nay cơn sốt như thiêu đốt cơ thể, khiến ông nôn mửa liên tục và run cầm cập trong những giấc ngủ trằn trọc. Mỗi sáng thức giấc ông lại thấy mình yếu hơn. Sẽ không lâu nữa đâu, ông phải tự thừa nhận với mình thế.
Nếu cơn sốt không giết được ông, thì chắc chắn là cơn khát. Ở đây không có nước ngọt, nhưng thi thoảng cũng có mưa trút xuống thành các vũng nhỏ trên hốc đá. Mới chỉ có ba ngày (hay là bốn rồi? Trên đảo đá này, khó có thể phân biệt ngày đêm) các hốc đá cạn ráo như khúc xương khô, và hình ảnh vịnh nước gợn song đặc một màu xanh xám bao quanh khiến ông không sao chịu đựng nổi. Ông biết rõ khi uống nước biển, cái kết sẽ đến nhanh thôi, nhưng ngay khi uống ngụm đầu tiên, cổ họng ông bỏng rát. Một cơn gió mạnh bất chợt thổi đến đã cứu sống ông. Ông yếu đến mức chỉ có thể nằm dưới mưa, mắt nhắm nghiền, miệng há to, và để nước mưa bắn tung tóe lên đôi môi khô nẻ và cái lưỡi sưng phồng của mình. Sau đó, ngay khi ông cảm thấy khỏe hơn một chút, thì các hốc đá và kẽ nứt trên hòn đảo lại tràn trề nước mưa và sự sống.
Nhưng đó là ba ngày trước (hoặc cũng có thể là bốn) và đến giờ hầu như nước đã hết sạch rồi. Chỗ thì bốc hơi, còn thì ông hút hết. Đến ngày mai ông sẽ lại phải nếm bùn, và liếm những viên đá ẩm ướt trong sự tuyệt vọng.
Và nếu không phải cơn khát hay cơn sốt, thì cơn đói cũng sẽ giết ông. Hòn đảo này chỉ là một ngọn tháp trơ trọi nhô ra giữa sự mênh mông của vịnh Xoáy Nước Đen. Khi thủy triều chưa dâng, thi thoảng ông cũng kiếm được mấy con cua nho nhỏ dọc theo bờ đá mà ông đã bị dạt trên bờ sau trận chiến. Đám cua kẹp các ngón tay của ông đau điếng trước khi ông đập chúng tan tành trên đá để hút thịt trong càng và trong mai của chúng.
Nhưng bờ đá biến mất mỗi khi thủy triều lên, và Davos lại phải trườn trên đá để không bị cuốn vào vịnh thêm một lần nữa. Đỉnh của đảo đá cao trên bốn mét so với mặt nước biển khi thủy triều dâng, nhưng khi có sóng lớn, bụi nước bắn lên còn cao hơn thế, vì vậy không có cách nào để giữ cho thân thể khô ráo, ngay cả khi ông ở trong hang (hang cũng chỉ là một cái hố trong đá, bên dưới phần đá nhô ra biển.) Trên đảo chỉ có địa y, ngay cả chim biển cũng tránh xa nơi này. Thi thoảng cũng có mòng biển đậu trên đỉnh đảo, và Davos cũng cố bắt lấy một con, nhưng chúng nhanh đến nỗi ông không kịp đến gần. Ông ném đá vào chúng, nhưng ông không còn đủ sức lực mà ném cho mạnh, vì thế mấy hòn đá của ông chỉ khiến chúng hét lên khó chịu rồi biến mất vào không trung.
Từ chỗ trú, ông nhìn thấy nhiều đảo đá khác, là những tảng đá hình tháp xa xa cao hơn nơi ông trú ngụ. Tảng đá gần nhất cách mặt nước khoảng mười hai mét, ông đoán vậy, mặc dù ở khoảng cách xa thế này khó mà đoán chắc được. Một đàn mòng đông đúc liên tục bám lấy tảng đá, và Davos thường nghĩ đến việc băng sang đó để cướp cả tổ của chúng. Nhưng ở đây nước lạnh buốt, dòng nước xiết và hay thay đổi, ông biết mình không đủ sức để bơi trong dòng nước như thế. Ông sẽ chết ngay tức khắc, y như phải uống nước biển.
Mùa thu ở eo biển hẹp này thường ẩm ướt và mưa nhiều, ông nhớ từ những năm tháng đã qua. Ban ngày không tệ quá, vì mặt trời vẫn chiếu sáng, nhưng đêm lạnh hơn nhiều, và đôi khi, gió thổi giật từng cơn khắp trên vịnh, kéo theo từng cơn sóng bạc đầu nên chẳng mấy chốc Davos lại ướt sũng và run lập cập. Cơn sốt và cái lạnh cứ luân phiên tấn công ông, và những cơn ho đau buốt cứ bám lấy ông dai dẳng.
Cái hang nơi ông trú ẩn là nơi nương tựa duy nhất, nó rất nhỏ. Gỗ trôi dạt và mảnh vụn cháy đen thường dạt lên bờ, khi thủy triều rút xuống, nhưng ông không có cách nào để đánh lửa hay nhóm lửa. Một lần, trong cơn tuyệt vọng, ông cũng thử chà hai mảnh gỗ trôi dạt vào nhau, nhưng hai mẩu gỗ đã mục rữa, nên nỗ lực chỉ khiến tay ông phồng rộp lên. Quần áo ông cũng sũng nước, và ông đánh mất một chiếc ủng đâu đó trong vịnh này trước khi trôi vào đây.
Khát; đói; dãi gió dầm mưa. Đó là ba người bạn đồng hành của ông, kè kè bên ông từng giờ từng phút. Rồi sẽ sớm thôi, một trong mấy người bạn đó sẽ thương cảm mà giúp ông, giải phóng ông khỏi nỗi khổ sở bất tận này. Hay có lẽ, một ngày nào đó, ông chỉ cần bước xuống nước và bơi thẳng đến bờ biển nào đó nơi phía bắc, ngoài tầm nhìn của ông. Bơi đến đó thì xa quá, trong khi ông yếu ớt như vậy, nhưng điều đó không quan trọng. Davos vốn là một thủy thủ; cuộc đời ông là phải bỏ mạng ở biển. Các vị thần bên dưới con nước đang đợi ta, ông tự nhủ. Đã đến lúc ta đến bên các vị rồi.
Nhưng bây giờ, lại có một cánh buồm; chỉ là một đốm nhỏ phía cuối chân trời thôi, nhưng mỗi lúc lại lớn dần lên. Một con thuyền đang đến nơi mà không con thuyền nào nên tới. Ít nhiều ông cũng biết tảng đá nơi mình trú ngụ nằm ở đâu; nó là một trong vô số tảng đá biển nhô lên khỏi đáy vịnh Xoáy Nước Đen. Tảng đá cao nhất cao hơn thủy triều tới ba mươi mét, và khoảng chục tảng khác cao từ mười đến hai mươi mét. Đám thủy thủ gọi những tảng đá đó là ngọn giáo của vua Merling, và biết rằng, đối với từng tảng đá nhô lên, có hàng chục tảng đá nhỏ khác đang ẩn náu bên dưới nó. Một thuyền trưởng khôn ngoan luôn luôn lái con thuyền của mình tránh xa những tảng đá đó.
Davos nhìn cánh buồm phồng lên với đôi mắt thâm quầng, và ông cố lắng nghe tiếng gió rít trong vải bạt. Con thuyền đang đi tới đây. Trừ khi nó sớm đổi hướng đi, nó sẽ đi vào trong hành trình đầy đá tại nơi trú ẩn sơ sài của ông. Như thế là được sống. Nếu ông muốn. Ông không chắc mình muốn hay không.
Tại sao tôi sống? Ông thầm nghĩ khi nước mắt làm mờ tầm nhìn của ông. Thánh thần ơi, tại sao? Các con trai tôi, Dale và Allard, Maric và Matthos, có lẽ cả Devan, đều chết hết rồi. Làm sao một người cha có thể sống lâu hơn những đứa con trai trẻ và khỏe mạnh đến thế? Tôi sẽ tiếp tục sống thế nào đây? Tôi là một cái vỏ trống không, một con cua rỗng ruột, bên trong không còn gì hết. Các con tôi có biết như vậy không?
Cha con họ cùng giương buồm tới Xoáy Nước Đen, cùng lướt qua trái tim hừng hực lửa của Thần Ánh Sáng. Davos cùng Betha Đen tham gia tuyến thứ hai của cuộc chiến, giữa Hồn Ma của Dale và Phu nhân Marya của Allard. Maric, đứa con trai thứ ba của ông, là tay chèo kỳ cựu trên thuyền Thịnh Nộ, đúng trung tâm của tuyến đầu, trong khi Matthos cũng ở tuyến thứ hai với cha. Bên dưới các bức thành của Tháp Đỏ, con thuyền lớn của Stannis Baratheon gia nhập cuộc chiến với con thuyền nhỏ hơn của vua Joffrey, và trong một vài giây, con sông rung lên vì tiếng cung bắn, tiếng kim loại, tiếng mái chèo khua và cả tiếng thân tàu vỡ vụn.
Và rồi, một con quỷ lớn gầm lên, những ngọn lửa xanh vây bủa bọn họ: lửa lan nhanh lắm, nước tiểu của pháp sư lửa, con quỷ màu xanh ngọc bích. Matthos đứng, khuỷu tay thằng nhỏ chống trên sàn thuyền Betha Đen, trong khi con thuyền có vẻ như nhảy lên khỏi mặt nước. Davos thấy mình ngã nhào xuống sông, tay chân vung đập liên hồi khi dòng nước cuốn ông xoáy tít và quay mòng mòng. Phía ngược dòng, những cuộn lửa xé toạc trời mây, cao tới mười lăm mét. Ông nhìn thấy con thuyền Betha Đen cháy hừng hực, thuyền Thịnh Nộ, và cả chục con thuyền khác nữa, ông cũng thấy biết bao người toàn thân bốc lửa đang nhảy tùm xuống nước tìm cái chết dễ dàng hơn. Hồn Ma và Phu nhân Marya chìm nghỉm và tan xác, hoặc biến mất đằng sau ngọn lửa lớn kia, và ông không còn thời gian để tìm kiếm bọn họ, bởi cửa sông đang ở ngay bên hông ông, bị chắn ngang bởi một sợi xích sắt to lớn của Nhà Lannister. Từ bờ sông này đến bờ sông kia, không còn gì, ngoài những con thuyền đang rừng rực cháy, và cả ngọn lửa đang vươn cao. Trước cảnh ấy, tim ông như ngừng đập, và ông vẫn nhớ rõ âm thanh đó, tiếng lửa lốp bốp, tiếng xì xì của hơi nước, tiếng la hét của những người đàn ông đang chết cháy, và tiếng quất của cái nóng khủng khiếp ấy lên mặt ông khi dòng nước nhấn chìm ông xuống địa ngục.
Ông không cần gì nữa. Chỉ vài giây nữa thôi, ông sẽ được ở bên các con, yên nghỉ trên lớp bùn xanh lạnh lẽo dưới đáy vịnh, và đàn cá sẽ thi nhau rỉa thịt trên mặt ông.
Nhưng không, ông lại nuốt một ngụm không khí và lặn xuống, chạm chân xuống đáy sông. Niềm hy vọng duy nhất của ông là được chui qua đáy xích, chui dưới những con thuyền đang cháy rụi, và cả ngọn lửa lớn đang phập phồng trên mặt nước, để bơi hết sức, tìm kiếm sự an toàn ở phía con vịnh xa xa. Davos vẫn luôn là một tay bơi cừ khôi, và hôm đó ông không đeo thêm áo giáp sắt, trừ chiếc mũ sắt mà ông đã đánh mất khi đánh mất luôn cả Betha Đen. Khi bơi xuyên bóng tối, ông nhìn thấy nhiều người khác đang vật lộn bên dưới mặt nước, bị kéo xuống, bị chết đuối bên dưới sức nặng của áo giáp. Davos bơi ngang qua bọn họ, hai chân gắng hết chút sức lực còn lại đá tới đá lui, để cơ thể cao hơn dòng nước, nước sông ngập ngụa trong mắt ông. Ông chìm xuống sâu hơn, sâu hơn, và cứ sâu mãi. Với mỗi sải bơi, ông càng khó giữ hơi hơn. Ông nhớ mình đã nhìn thấy đáy sông, mềm và tối tăm bên dưới, khi bong bóng bung ra từ giữa hai môi ông. Có gì đó chạm vào chân ông… một cọc gỗ, một con cá, hay một người đang chết đuối, ông cũng không biết rõ.
Lúc ấy, ông cần không khí, nhưng ông sợ. Liệu ông đã vượt qua sợi xích chắn đó chưa, ông đã ra tới vịnh chưa? Nếu đang bơi dưới một con tàu, ông sẽ chết đuối, và nếu ông nổi lên giữa những mảnh vụn bị cháy rụi, hơi thở đầu tiên sẽ khiến miệng ông ngập ngụa trong tro bụi, tro sẽ chui vào tận phổi. Ông xoay người trong nước để ngẩng lên nhìn, nhưng ở trên không có gì, ngoài một màu xanh sậm, rồi ông xoay tít đi rất xa, và đột nhiên, ông không biết mình đang ở tư thế nào. Sự hoảng loạn bám chặt lấy ông. Hai tay ông đập liên hồi vào đáy sông, làm bắn lên một lớp bùn dày che cả tầm nhìn. Ngực ông mỗi lúc một khó thở. Ông cào cấu vào nước, đá chân, đẩy người, xoay xoay, phổi ông gào thét đòi không khí, lại đá chân, rồi đá tiếp, lúc này ông lọt thỏm trong bóng tối của con sông, ông cứ đá, đá nữa, đá cho đến khi ông không thể đá tiếp. Khi mở miệng để kêu thét, nước tràn vào, mặn lắm, và Davos Seaworth biết rằng ông đang chết đuối.
Điều tiếp theo ông biết là mặt trời đã lên, và ông nằm bẹp dí trên một bờ đá bên dưới đỉnh chóp một tảng đá trơ trọi, xung quanh là vịnh nước trống không, một cột buồm gãy, một cánh buồm cháy, và một xác chết trương phồng bên cạnh ông. Cột buồm, cánh buồm, và xác chết biến mất theo cơn thủy triều cao sau đó, để lại một mình Davos trên tảng đá giữa vô số giáo mác.
Nhiều năm ròng trên tàu buôn lậu đã khiến những con nước trên khắp Vương Đô quen thuộc với ông hơn mọi ngôi nhà mà ông từng có, và ông biết, nơi trú ẩn của mình chỉ là một đốm nhỏ xíu trên bản đồ, ở một nơi mà những thủy thủ giỏi luôn luôn lái tàu tránh xa, thay vì tiến tới… mặc dù Davos vốn từng đi qua đó một, hoặc hai lần trong những ngày tháng đi buôn lậu, với mong muốn không bị ai nhìn thấy. Nếu bọn họ thấy ta chết ở đây, ấy là nếu như họ thấy, biết đâu bọn họ lại đặt tên tảng đá này theo tên ta, ông thầm nghĩ. Tảng đá Củ Hành, có lẽ là thế; đây sẽ là mồ chôn, và cũng là gia tài của ta. Ông chỉ xứng đáng có thế thôi. Người cha phải bảo vệ con cái, các vị tư tế đã dạy như vậy, nhưng Davos đã đưa các con vào biển lửa. Dale sẽ không bao giờ cùng vợ nó sinh ra đứa con mà hai đứa đã cầu nguyện bấy lâu nay, và Allard, bạn gái của nó ở Oldtown, cả cô bạn gái ở Vương Đô và ở Braavos đều sẽ đau khổ khóc thương nó. Matthos sẽ không bao giờ được làm thuyền trưởng trên con tàu của riêng nó, như nó vẫn ước ao. Maric cũng sẽ không bao giờ được phong hiệp sĩ.
Làm sao ngươi có thể sống khi tất cả các con ngươi đều đã chết? Quá nhiều hiệp sĩ dũng cảm và những vị tướng kỳ cựu đã chết, họ đều được sinh ra trong gia đình quyền quý, và giỏi hơn ngươi. Davos, chui vào hang của ngươi đi. Chui vào, co mình trong đó, rồi để con tàu đi khuất, và sẽ không ai làm phiền ngươi nữa. Hãy ngủ trên chiếc gối đá của ngươi, và để đám mòng biển móc mắt ngươi ra trong khi đám cua ăn mừng với da thịt của ngươi. Ngươi đã ăn bữa tiệc lớn bằng ruột gan của chúng rồi, ngươi nợ chúng nhiều lắm. Trốn đi, tên buôn lậu kia. Trốn đi, im lặng đi, và chết đi.
Cánh buồm gần đến nơi ông ẩn nấp rồi. Chỉ vài giây nữa thôi, và con thuyền sẽ lặng lẽ lướt qua, và ông sẽ chết trong an lành.
Tay ông rờ lên họng, dò dẫm tìm chiếc bao da mà ông vẫn đeo trên cổ. Bên trong bao là xương của bốn ngón tay mà nhà vua đã chặt của ông, vào ngày mà ngài phong hiệp sĩ cho ông. Thần may mắn của ta. Những ngón tay ngắn của ông vỗ nhẹ vào ngực, mò mẫm, nhưng không thấy gì. Chiếc bao đã biến mất, cùng với những mẩu xương ngón tay nữa. Stannis không bao giờ hiểu tại sao ông giữ những mẩu xương đó. “Để nhắc tôi nhớ đến sự công bằng của nhà vua,” ông thì thào qua đôi môi khô nẻ. Nhưng bây giờ, chúng mất rồi. Ngọn lửa đã cướp mất thần may mắn và cả những đứa con trai của ta. Trong mơ, ông vẫn thấy con sông hừng hực lửa, ma quỷ nhảy nhót trên mặt nước, tay chúng cầm những chiếc roi lửa, trong khi biết bao người bị cháy đen rụi bên dưới những chiếc roi ấy. “Đức Mẹ ơi, xin hãy thứ tha,” Davos cầu nguyện. “Mẹ ơi, xin hãy cứu con, xin hãy cứu tất cả chúng con. Thần may mắn của con mất rồi, và cả các con trai của con nữa.” Lúc này ông đang khóc, nước mắt mặn đắng chảy dài trên má ông. “Ngọn lửa đã cướp đi tất cả… ngọn lửa.”
Có lẽ chỉ là gió thổi đập vào tảng đá, hoặc sóng biển vỗ bờ, nhưng trong tích tắc, Davos Seaworth nghe thấy tiếng trả lời của mẹ. “Ngươi đã gọi lửa đến,” bà thì thầm, giọng bà mong manh như tiếng sóng trong vỏ ốc, buồn và nhẹ lắm. “Ngươi đốt cháy chúng ta… đốt cháy chúng ta… đốt cháy chúng ta.”
“Chính là lửa!” Davos hét lên. “Mẹ ơi, đừng rời bỏ chúng con. Chính lửa đã đốt cháy người, nữ tu đỏ, Melisandre, chính là cô ta!” Ông nhìn thấy cô ta; khuôn mặt hình trái tim, đôi mắt đỏ rực, mái tóc dài màu đồng đỏ, chiếc áo khoác đỏ bay phần phật như ngọn lửa lắc lư khi cô ta bước đi. Cô ta từ vùng Asshai đến với Dragonstone, cô ta thắng Selsye và những người lính của thái hậu vì vị thần xa lạ của cô ta, và rồi cả vua Stannis Baratheon. Ngài đã đi quá xa để đặt hình trái tim rực lửa lên ngọn cờ, trái tim rực lửa của R’hllor, Thần Ánh Sáng, Thần Lửa và Bóng Tối. Trước sự thúc giục của Melisandre, ngài đã lôi kéo Thất Diện Thần khỏi thánh đường tại Dragonstone và thiêu cháy họ trước cổng lâu đài, sau đó ngài đốt cháy hết rừng thiêng tại Storm’s End, cả cây mặt người nữa – một cây đước trắng to lớn, với vẻ mặt uy nghi trên thân.
“Chính cô ta đã gây ra chuyện này,” Davos nhắc lại, lần này yếu ớt hơn. Và cả của ngươi nữa, Hiệp Sĩ Củ Hành ạ. Ngươi đã chèo thuyền đưa cô ta đến Storm’s End trong bóng tối, để cô ta thả những đứa con bóng đêm của cô ta. Ngươi không vô tội đâu, không đâu. Ngươi cưỡi ngựa bên dưới cờ hiệu của cô ta, và cho thuyền chạy dưới biểu tượng của cô ta trên cột buồm. Ngươi nhìn Thất Diện Thần bị thiêu rụi ở Dragonstone mà ngươi không làm gì hết. Cô ta trao sự công bằng của Đức Cha cho lửa, cả sự khoan dung của Đức Mẹ, và sự khôn ngoan của Bà Già nữa. Thần Thợ Rèn và Kẻ Lạ Mặt, Trinh Nữ và Thần Chiến Binh, cô ta thiêu cháy họ trước sự vinh quang của vị thần ác độc mà cô ta tôn thờ, còn ngươi, ngươi chỉ đứng đó và im lặng. Ngay cả khi cô ta giết Maester Cressen khốn khổ, ngươi cũng chẳng làm gì.
Cánh buồm chỉ còn cách ba trăm mét và đang lướt rất nhanh trên vịnh. Chỉ vài giây nữa thôi, nó sẽ lướt qua ông, và đi khuất.
Ser Davos Seaworth bắt đầu trèo lên tảng đá.
Ông kéo thân mình lên bằng đôi tay run rẩy, đầu óc quay mòng mòng vì cơn sốt. Những ngón tay thương tật trượt hai lần trên tảng đá ẩm ướt làm ông suýt ngã, nhưng ông vẫn cố bám vào tảng đá. Nếu ngã ông sẽ chết, nhưng ông phải sống. Ít nhất là thêm một lúc nữa. Ông phải làm gì đó.
Đỉnh tảng đá quá nhỏ để đứng an toàn trên đó, vì vậy ông cúi xuống và vẫy đôi bàn tay không còn sức sống. “Tàu,” ông hét lên trong gió. “Tàu, ở đây, ở đây!” Từ vị trí này ông nhìn tàu rõ hơn; thân tàu có sọc, hình chạm ở mũi tàu màu đồng thiếc, và cánh buồm no gió. Trên thân tàu có khắc một cái tên, nhưng Davos không biết đọc. “Tàu,” ông hét lên, “Cứu tôi, CỨU TÔI!”
Một thủy thủ trên boong tàu nhìn thấy và chỉ về phía ông. Ông quan sát trong khi các thủy thủ khác đi về mép tàu để nhìn ông. Một lát sau cánh buồm của con tàu được hạ xuống, các mái chèo được đẩy ra, và con tàu đi về phía trú ẩn của ông. Con tàu quá lớn, không thể đến gần tảng đá, nhưng khi còn cách khoảng một trăm mét, một chiếc thuyền nhỏ được thả xuống. Davos bám chặt vào tảng đá và nhìn con thuyền bơi về phía mình. Bốn người đàn ông chèo thuyền, trong khi người thứ năm ngồi trên mũi thuyền. “Ông kia,” người đàn ông đó hét lớn khi họ chỉ cách hòn đảo của ông vài mét, “người trên tảng đá kia. Ông là ai?”
Một kẻ buôn lậu, Davos thầm nghĩ, một kẻ ngu quá phục tùng nhà vua, và quên mất các vị thần của mình. Cổ họng ông rung lên, ông đã quên mình phải nói thế nào. Ngôn từ bỗng nhiên lạ lẫm với ông, và có vẻ lạ lắm với đôi tai ông. “Tôi tham gia trận chiến. Tôi là… thuyền trưởng, là… hiệp sĩ, tôi là một hiệp sĩ.”
“Ồ,” người đó nói, “và ông phục vụ vị vua nào?”
Ông nhận ra ngay lập tức là con thuyền đó có thể là của Joffrey. Bây giờ, chỉ cần ông nói sai, con thuyền sẽ để mặc ông với số phận của mình. Nhưng không, mũi thuyền có sọc. Đó là Lysene, là thuyền của Salladhor Saan. Mẹ cử con thuyền đến đây, Đức Mẹ với lòng khoan dung của người. Người giao nhiệm vụ cho ông. Stannis còn sống, ông biết như vậy. Ta vẫn có một vị vua. Và các con trai, ta sẽ có những đứa con trai khác, một người vợ chung thủy và đáng yêu. Tại sao ông lại quên nhỉ? Đức Mẹ vô cùng khoan dung.
“Stannis,” ông hét lại với Lysene. “Thánh thần ơi, tôi phục tùng vua Stannis.”
“Ồ,” người trên thuyền nói, “chúng tôi cũng vậy.”