Trò chơi vương quyền 2B – Bảy vương quốc
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 38
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Khi Qhorin Cụt Tay bảo anh tìm vài cành cây để đốt lửa, Jon biết cái chết đã đến rất gần.
Cảm giác khi được sưởi ấm thật tuyệt vời, dù là chỉ trong chốc lát, cậu tự nhủ khi chặt củi từ một khúc cây khô. Bóng Ma ngồi trên hai chân sau quan sát trong im lặng như thường lệ. Liệu khi ta chết nó có tru lên không nhỉ, giống như con sói của Bran từng tru khi em ấy ngã? Jon tự hỏi. Và Lông Xù ở tận Winterfell, cùng Gió Xám và Nymeria đang lang bạt đâu đó nữa, bọn chúng có tru không?
Mặt trăng đang nhô lên sau ngọn núi, thế chỗ cho mặt trời khuất dần. Jon cố đánh lửa bằng hòn đá và con dao găm cho tới khi một cột khói nhỏ bay lên. Qhorin đến bên quan sát ngọn lửa đầu tiên vụt cháy leo lét từ đống vỏ cây và lá thông khô. “Trông nó e thẹn như một cô gái trong đêm tân hôn vậy,” người lính biệt kích to lớn khẽ nói, “và cũng đẹp đẽ chẳng kém gì. Đôi khi người ta quên mất một ngọn lửa cũng rất xinh đẹp và đáng yêu.”
Không ai nghĩ một người như ông có thể nói về các cô gái và đêm tân hôn. Theo những gì Jon biết, Qhorin đã sống cả cuộc đời trong Đội Tuần Đêm. Ông ấy từng yêu một cô gái hay trải qua cuộc hôn nhân nào chưa nhỉ? Cậu không hỏi mà quay sang quạt lửa. Khi ngọn lửa đã cháy lép bép, cậu tháo đôi găng đông cứng ra để sưởi ấm bàn tay. Thở dài, Jon tự hỏi liệu nụ hôn có đem lại cảm giác dễ chịu thế này không. Hơi ấm lan tỏa khắp các ngón tay cậu như bơ tan chảy.
Cụt Tay thả mình xuống đất và ngồi khoanh chân bên đống lửa, ánh sáng lập lòe nhảy múa trên những đường nét cứng rắn của khuôn mặt ông. Nhóm năm người lính biệt kích chạy thoát khỏi đèo Skirling giờ đây chỉ còn hai, họ trở về với dãy núi Frostfang xám xanh hoang dã.
Ban đầu, Jon đã hy vọng cận vệ Dalbridge có thể giữ chân được lũ du mục trên đèo. Nhưng khi nghe tiếng tù và từ đằng xa vọng lại, họ đều hiểu rằng người cận vệ đã ngã xuống. Rồi sau đó, họ phát hiện con đại bàng vỗ đôi cánh xám xanh vĩ đại bay vút lên trong ánh sáng nhá nhem của buổi hoàng hôn. Rắn Đá lấy cung tên ra nhưng con chim đã bay khỏi tầm ngắm trước khi ông kịp kéo dây cung. Ebben nhổ nước bọt và lẩm bẩm về người đội lốt và những kẻ biến hình.
Ngày tiếp theo họ lại thấy con đại bàng hai lần nữa và nghe tiếng tù và săn vang vọng vách núi phía sau. Những âm thanh dường như mỗi lúc một to hơn và gần hơn. Khi màn đêm buông xuống, Cụt Tay bảo Ebben đem theo ngựa của ông và của người cận vệ phi hết tốc lực về hướng đông đi tìm Mormont, quay ngược trở lại con đường họ đã đi qua. Số còn lại sẽ đánh lạc hướng những kẻ đuổi theo. “Vậy thì cử Jon đi,” Ebben giục. “Cậu ta cưỡi ngựa nhanh chẳng kém gì tôi.”
“Jon còn có nhiệm vụ khác.”
“Nhưng nó mới chỉ là một thằng nhóc thôi.”
“Không đâu,” Qhorin nói, “cậu ta đã là một anh em trong Đội Tuần Đêm rồi.”
Khi mặt trăng lên, Ebben chia tay họ để lên đường. Rắn Đá đi cùng Ebben một đoạn ngắn về phía đông, rồi quay trở về và đi quãng đường xa gấp đôi để xóa dấu vết. Sau đó ba người còn lại đi về phía tây nam.
Với họ giờ đây khái niệm ngày và đêm đã không còn nữa. Họ ngủ trên yên ngựa và chỉ dừng lại đủ lâu để cho ngựa ăn và uống nước, rồi tiếp tục lên đường. Họ đi qua những vùng khô cằn sỏi đá, những cánh rừng thông u ám lổn nhổn đụn tuyết tan, vượt qua núi đồi phủ đầy băng giá và những dòng sông cạn không tên. Thỉnh thoảng Qhorin và Rắn Đá cho ngựa quay lại để xóa dấu vết, nhưng làm vậy cũng chẳng ích gì. Họ bị theo dõi. Dù là khi sáng sớm hay lúc hoàng hôn, họ đều nhìn thấy con đại bàng bay vút lên giữa các đỉnh núi cao, trông chỉ như một chấm nhỏ giữa bầu trời mênh mông thăm thẳm.
Khi họ đang vượt qua một dãy đồi thấp giữa hai đỉnh núi phủ băng tuyết, một con mèo ma từ trong hang tiến đến cách họ chưa đầy mười mét và nhe nanh gầm gừ. Con thú trông hốc hác và gầy nhẳng như sắp chết đói, nhưng nó vẫn khiến cho con ngựa của Rắn Đá hoảng loạn, lồng lên và chạy đi. Tới khi người lính biệt kích kiểm soát được nó thì con ngựa đã trượt ngã ở một đoạn dốc dựng đứng và bị gãy một chân.
Hôm đó Bóng Ma được một bữa no nê, còn Qhorin khăng khăng muốn các lính biệt kích trộn máu ngựa với yến mạch ăn để tăng thêm sức mạnh. Mùi vị của món cháo kinh khủng đó làm Jon suýt nghẹn, nhưng cậu vẫn cố nuốt trôi. Mỗi người bọn họ cắt khoảng một chục dải thịt ngựa sống đem theo để ăn trên đường, và bỏ lại toàn bộ cho lũ mèo ma.
Giờ hai người phải cưỡi chung một ngựa. Rắn Đá đề nghị để ông ở lại đón lõng bọn du mục đang đuổi theo và tấn công bất ngờ khi chúng đến. Có thể ông sẽ lôi được vài tên xuống địa ngục cùng ông. Thế nhưng Qhorin từ chối. “Nếu người nào trong Đội Tuần Đêm có thể một mình đi bộ vượt qua dãy Frostfang thì đó là anh, người anh em. Anh có thể trèo qua những quả núi mà ngựa phải đi đường vòng. Hãy quay về Nắm Đấm, nói cho Mormont biết Jon đã thấy gì và bằng cách nào. Hãy nói với ông ấy rằng sức mạnh cổ xưa đang trỗi dậy, rằng ông ấy sẽ phải đối mặt với người khổng lồ, những kẻ đội lốt và những điều thậm chí còn tệ hơn thế. Bảo ông ấy, những cái cây lại có mắt rồi.”
Ông ấy sẽ chẳng có cơ hội đâu, Jon thầm nghĩ khi nhìn bóng Rắn Đá mờ dần trên sườn núi phủ tuyết, một con bọ đen bé xíu bò giữa một vùng tuyết trắng nhấp nhô.
Sau đó, mỗi đêm dường như lạnh hơn và cô độc hơn đối với họ. Không phải lúc nào Bóng Ma cũng ở bên cạnh họ, nhưng nó cũng không đi đâu xa. Ngay cả khi không ở cùng nhau, Jon vẫn cảm thấy con sói ở đâu đó xung quanh. Cậu thấy vui vì điều đó. Cụt Tay không phải là người bạn đồng hành dễ gần. Bím tóc hoa râm dài được tết gọn gàng của Qhorin khẽ đung đưa theo nhịp điệu của con ngựa ông cưỡi. Họ thường đi hàng giờ liền mà không hề nói với nhau một lời nào, âm thanh duy nhất phát ra là tiếng móng ngựa gõ nhẹ trên đá và tiếng gió rít không ngừng qua những khe núi cao. Giấc ngủ của cậu không mộng mị; không có sói, không có các anh em, không gì cả. Ở đây, thậm chí giấc mơ cũng không sống nổi, Jon tự nhủ.
“Kiếm của cậu có sắc không, Jon Snow?” Qhorin Cụt Tay hỏi khi hai người ngồi hai bên đống lửa bập bùng.
“Kiếm của tôi làm bằng thép Valyria. Gấu Già đã tặng nó cho tôi.”
“Cậu có nhớ lời thề của mình không?”
“Có ạ.” Đó là những lời mà một người khó có thể lãng quên. Một khi đã nói ra, anh ta sẽ không thể rút lại. Chúng thay đổi cuộc sống của một con người, mãi mãi.
“Vậy thì hãy đọc lại nó cùng ta, Jon Snow.”
“Vâng, nếu ngài muốn.” Trăng đang lên cao dần, giọng họ hòa vào nhau làm một trong khi Bóng Ma lắng tai nghe và những ngọn núi làm nhân chứng. “Màn đêm đã buông, và giờ là phiên tôi canh gác. Tôi sẽ phục vụ cho đến khi ngừng thở. Tôi sẽ không lấy vợ, không dựng nhà, không làm cha của những đứa trẻ. Tôi sẽ không đội vương miện và không giành lấy vinh quang. Tôi sẽ sống chết với vị trí của mình. Tôi là thanh kiếm trong bóng đêm. Tôi là người gác những bức tường thành. Tôi là ngọn lửa xua tan giá lạnh, là ánh sáng gọi bình minh, là chiếc tù và đánh thức người say ngủ, là tấm khiên bảo vệ cả vương quốc loài người. Tôi thề hiến dâng cả cuộc đời và danh dự cho Đội Tuần Đêm, cho đêm nay và mãi mãi về sau.”
Khi họ đọc xong lời tuyên thệ, không gian quanh họ im ắng chỉ còn tiếng lách tách của ngọn lửa và tiếng gió vi vút phía xa xa. Jon co duỗi các ngón tay bị bỏng, lẩm nhẩm từng lời vừa nói trong đầu và cầu mong các vị thần của cha cậu ban cho sức mạnh, để cậu có thể chết một cách dũng cảm khi thời khắc đến. Sẽ không còn lâu nữa. Lũ ngựa đã gần kiệt sức. Jon nghĩ con ngựa của Qhorin sẽ không gắng gượng nổi thêm một ngày nào nữa.
Lúc này đám lửa đã sắp tàn, hơi ấm tan dần. “Lửa sắp tàn rồi,” Qhorin nói, “nhưng nếu Tường Thành thất thủ, mọi ngọn lửa sẽ bị dập tắt.”
Chẳng biết nói gì, Jon gật đầu.
“Chúng ta có thể chạy thoát,” người lính biệt kích nói. “Có thể không.”
“Tôi không sợ chết.” Câu đó có một nửa là nói dối.
“Có thể sẽ không dễ dàng như vậy đâu, Jon.”
Câu nói khiến Jon thấy khó hiểu. “Ý ông là gì?”
“Nếu chúng ta bị bắt, cậu phải đầu hàng.”
“Đầu hàng ư?” Cậu kinh ngạc chớp mắt. Bọn du mục chưa bao giờ bắt những người chúng gọi là quạ làm tù binh. Chúng giết tất cả, ngoại trừ… “Chúng chỉ tha cho những ai phá vỡ lời thề, và gia nhập với bọn chúng, như Mance Rayder.”
“Và cậu nữa.”
“Không.” Cậu lắc đầu. “Không đời nào. Tôi sẽ không làm như vậy.”
“Cậu sẽ làm thế. Ta ra lệnh đấy.”
“Ra lệnh ư? Nhưng…”
“Chỉ cần vương quốc được an toàn thì danh dự cũng như mạng sống của chúng ta chẳng có ý nghĩa gì. Cậu có phải là người của Đội Tuần Đêm không?”
“Phải, nhưng…”
“Không nhưng gì hết, Jon Snow. Phải, hoặc là không.”
Jon ngồi thẳng người lên. “Phải ạ.”
“Vậy thì nghe ta. Nếu chúng ta bị bắt, cậu sẽ nhập hội với chúng giống như cô gái du mục kia gợi ý. Có thể chúng sẽ bắt cậu phải cắt áo choàng ra thành từng mảnh, phải thề với chúng trên hương hồn của cha cậu, phải nguyền rủa các anh em và tướng chỉ huy. Cậu không được chùn bước, dù chúng yêu cầu bất cứ điều gì. Hãy làm theo lời chúng… nhưng trong tim cậu luôn phải nhớ mình là ai và sứ mệnh của cậu là gì. Hãy đi cùng chúng, ăn với chúng, chiến đấu bên chúng, dù mất bao lâu đi chăng nữa. Và cậu phải quan sát.”
“Quan sát điều gì?” Jon hỏi.
“Ước gì ta biết được,” Qhorin nói. “Con sói của cậu đã nhìn thấy nơi tập kết của bọn chúng ở lưu vực sông Milkwater. Chúng muốn tìm kiếm thứ gì ở một nơi trống trải và biệt lập như vậy? Chúng đã tìm thấy gì chưa? Đó là những điều cậu phải tìm hiểu, trước khi trở về với Lãnh chúa Mormont và các anh em. Đó là nhiệm vụ ta giao cho cậu, Jon Snow.”
“Tôi sẽ làm theo lời ngài,” Jon do dự nói, “nhưng… ngài sẽ nói với bọn họ chứ? Ít nhất là nói với Gấu Già? Hãy nói với ngài ấy rằng tôi chưa bao giờ phá vỡ lời thề.”
Qhorin Cụt Tay nhìn cậu qua ngọn lửa, đôi mắt ông khuất trong màn đêm mênh mông. “Khi nào gặp lại ông ấy. Ta thề.” Ông chỉ vào ngọn lửa. “Thêm củi đi. Ta muốn lửa cháy thật sáng và nóng rực.”
Jon đi chặt thêm cành cây, bẻ chúng làm đôi và ném vào đống lửa. Những cành cây đã chết từ lâu dường như sống lại trong ngọn lửa, như thể các vũ công nóng bỏng trong mỗi que củi đang thức dậy, quay cuồng, xoay tròn trong những bộ xiêm y rực rỡ màu vàng, đỏ và cam.
“Đủ rồi,” Qhorin đột ngột nói. “Giờ chúng ta đi thôi.”
“Đi ư?” Ngoài ánh sáng của ngọn lửa, không gian hoàn toàn đen đặc, và màn đêm rất lạnh lẽo. “Nhưng đi đâu ạ?”
“Quay về.” Qhorin lại leo lên con ngựa mòn mỏi của mình. “Hy vọng ngọn lửa sẽ thu hút chúng tới đây. Đi nào, người anh em.”
Jon xỏ đôi găng tay vào và kéo mũ trùm đầu. Ngay cả lũ ngựa cũng ngại ngần khi phải rời đám lửa. Mặt trời đã lặn từ lâu, và giờ chỉ còn ánh trăng khuyết bàng bạc lạnh lẽo soi sáng cho họ trên con đường đầy nguy hiểm phía trước. Cậu không biết Qhorin đang nghĩ gì, nhưng có lẽ đó sẽ là một cơ hội. Hy vọng như vậy. Ta không muốn là kẻ phá vỡ lời thề, cho dù có vì mục đích tốt đẹp đi chăng nữa.
Cả người lẫn ngựa đều di chuyển hết sức cẩn trọng và nhẹ nhàng. Họ quay trở lại con đường đã đi qua cho tới khi đến cửa một khe núi hẹp, nơi có dòng suối nhỏ đóng băng hiện ra giữa hai đỉnh núi. Jon nhớ nơi này. Họ đã cho ngựa uống nước ở đây trước khi mặt trời lặn.
“Nước đang đóng băng,” Qhorin nghiêng đầu quan sát, “Chúng ta có thể đi qua dòng suối cạn. Nhưng nếu chúng ta làm vỡ băng, bọn chúng sẽ phát hiện ra. Nhớ đi nép vào vách núi. Một khúc quanh dài hơn nửa dặm có thể là nơi kín đáo cho chúng ta.” Ông cưỡi ngựa tiến vào lòng suối. Jon nuối tiếc nhìn ngọn lửa phía đằng xa lần cuối rồi đi theo.
Đi càng xa, hai vách núi càng hẹp lại. Họ đi dọc con suối ngập ánh trăng trông như một dải ruy băng và tiến về phía thượng nguồn. Những trụ băng nhô lên hai bên bờ suối đầy sỏi đá, nhưng Jon vẫn nghe thấy tiếng nước chảy bên dưới lớp băng mỏng cứng.
Giữa đường, một phần của vách đá sạt xuống tạo thành một đống đá lộn xộn chắn ngang lối đi của họ, nhưng hai con ngựa nhỏ chắc vó vẫn tìm cách đi qua. Sau đó, các vách đá đột ngột co hẹp lại, con suối dẫn họ đến chân một thác nước cao và chảy xiết. Không gian ngập trong màn sương băng giá, giống như hơi thở của con quái thú vĩ đại. Dòng nước ào ào đổ xuống lấp lánh như dát bạc dưới ánh trăng. Jon rầu rĩ nhìn xung quanh. Chẳng còn lối ra nào cả. Cậu và Qhorin có thể sẽ phải trèo qua vách núi, nhưng còn lũ ngựa thì sao. Cậu không nghĩ họ có thể đi bộ được lâu.
“Nhanh lên nào,” Cụt Tay ra lệnh. Người đàn ông to lớn cưỡi con ngựa nhỏ đi qua những tảng đá phủ băng trơn trượt, xông thẳng vào màn nước, và biến mất. Không thấy ông quay lại, Jon thúc ngựa đi theo. Con ngựa của cậu khựng lại cố né dòng thác. Nước từ trên cao dội xuống giống như những nắm đấm băng giá xối vào mặt họ, và cú sốc vì lạnh làm Jon gần như ngừng thở.
Rồi cậu cũng lao qua được dòng thác, dù ướt nhẹp và run rẩy.
Khe đá hẹp dường như chẳng đủ chỗ cho người và ngựa đi qua, nhưng sau thác nước, vách đá mở rộng hẳn ra và lòng suối đóng băng được thay bằng cát mềm và mịn. Jon cảm thấy nước đang đông cứng lại trên râu cậu. Bóng Ma giận dữ lao nhanh qua thác nước, rồi lắc mình để giũ nước khỏi bộ lông. Nó đánh hơi trong bóng tối với vẻ nghi hoặc, rồi ghếch một chân lên một góc tường đá. Qhorin đã xuống ngựa. Jon làm theo. “Ngài biết nơi này từ trước rồi à?”
“Khi bằng tuổi cậu, ta có nghe một người anh em kể rằng ông ấy đã theo một con mèo ma vào bên trong thác nước này.” Ông cởi yên, tháo dây cương và hàm thiếc cho con ngựa, rồi luồn tay vào bờm nó. “Có một con đường xuyên qua tâm ngọn núi. Rạng sáng mai nếu chúng không tìm được đến đây, chúng ta sẽ đi tiếp. Ta sẽ gác phiên đầu, người anh em.” Qhorin ngồi trên cát và quay lưng vào vách đá, trông như một bóng đen mờ ảo trong hang tối u ám. Bên cạnh tiếng thác nước xối xả, Jon nghe thấy tiếng động nhẹ của thép chạm vào áo da, chứng tỏ Cụt Tay đã rút kiếm ra.
Ngoài chiếc áo choàng ướt, cậu không cởi thêm thứ gì trên người vì ở đây quá lạnh và ẩm ướt. Bóng Ma nằm soài bên cạnh cậu và liếm chiếc găng tay của cậu trước khi cuộn tròn lại ngủ. Hơi ấm của nó khiến Jon thấy dễ chịu. Cậu tự hỏi không biết ngoài kia ngọn lửa còn cháy hay đã tắt. Nếu Tường Thành thất thủ, mọi ngọn lửa sẽ bị dập tắt. Ánh trăng chiếu qua màn nước tạo ra một vệt sáng mờ lấp lánh trên nền cát, nhưng một lúc sau, ánh sáng đó mờ dần và tắt hẳn.
Cuối cùng Jon cũng chìm vào giấc ngủ, nhưng kèm theo đó là những cơn ác mộng. Cậu mơ thấy những tòa lâu đài cháy và người chết không ngừng thức dậy từ những nấm mồ. Trời vẫn còn tối khi Qhorin đánh thức cậu dậy. Khi Cụt Tay ngủ, Jon ngồi quay lưng vào vách hang, nghe tiếng thác nước chảy và đợi bình minh đến.
Rồi ngày mới cũng tới, họ nhai một dải thịt ngựa đông lạnh, khoác chiếc áo choàng đen lên vai và lại lên ngựa. Trong phiên gác của mình, Cụt Tay đã làm vài ngọn đuốc bằng cách nhúng các bó rêu khô vào dầu đựng trong chiếc túi treo bên yên ngựa của ông. Ông thắp cây đuốc đầu tiên lên và dẫn đường đi vào bóng tối, tay giơ cao ngọn đuốc trước mặt. Jon dắt hai con ngựa theo sau. Con đường đá quanh co khúc khuỷu, xuống dốc rồi lên dốc, rồi lại xuống một con dốc cheo leo hơn. Khi ra đến ngoài kia, chúng ta sẽ cắt đuôi được chúng, Jon vừa đi vừa nghĩ. Kể cả đại bàng cũng không thể nhìn xuyên qua đá tảng. Chúng ta sẽ cắt đuôi chúng, phi thật nhanh về Nắm Đấm, và kể cho Gấu Già nghe tất cả những gì chúng ta biết.
Thế nhưng, khi họ bước ra ngoài ánh sáng sau nhiều giờ mò mẫm, con đại bàng đã ở đó đợi họ, nó đậu trên một thân cây chết ở phía trên con dốc cách đó hơn ba mươi mét. Bóng Ma lao lên các phiến đá nhưng con chim đã đập cánh và bay vút lên không trung.
Qhorin nghiến răng dõi mắt theo con đại bàng.
“Đây cũng là nơi rất tốt để cố thủ,” ông tuyên bố. “Cửa hang che chắn chúng ta từ phía trên và bọn chúng không thể tới đây mà không đi xuyên qua núi. Kiếm của cậu sắc chứ, Jon Snow?”
“Sắc ạ,” Jon nói.
“Chúng ta sẽ cho lũ ngựa ăn. Chúng đã phục vụ chúng ta rất dũng cảm, những con vật tội nghiệp.”
Jon cho con ngựa của mình ăn yến mạch lần cuối và vuốt chiếc bờm bù xù của nó. Bóng Ma không ngừng đi quanh các tảng đá. Cậu kéo đôi găng tay cho chặt hơn và thả lỏng các ngón tay bị bỏng của mình. Ta là tấm khiên bảo vệ cả vương quốc loài người.
Tiếng tù và săn vang vọng khắp các ngọn núi, và một lát sau Jon nghe thấy tiếng sủa của bầy chó săn. “Chúng sắp đến nơi rồi,” Qhorin thông báo. “Giữ con sói của cậu ở gần nhé.”
“Bóng Ma, đến đây nào,” Jon gọi. Con sói lưỡng lự trở về bên cạnh cậu, cái đuôi vểnh lên phía sau.
Lũ du mục đang kéo đến từ một rặng núi cách đó chưa đầy nửa dặm. Bầy chó săn của chúng gầm gừ chạy đằng trước, những con thú màu nâu xám mang dòng máu sói. Bóng Ma nhe nanh, lông dựng đứng lên. “Không sao đâu,” Jon lẩm bẩm vỗ về con sói. “Yên nào.” Phía trên đầu, cậu nghe thấy tiếng đập cánh. Con đại bàng đậu trên rìa một tảng đá và rít lên hả hê trong chiến thắng.
Bọn săn người cẩn trọng tiến đến, có lẽ chúng sợ họ sẽ bắn tên. Jon đếm được mười bốn tên và tám con chó. Những tấm khiên tròn lớn được làm bằng da căng trên chiếc khung đan từ cây liễu gai, bên trên có sơn hình đầu lâu. Chúng đội những chiếc mũ thô sơ làm từ gỗ và da thuộc. Ở hai cánh, các cung thủ đã lắp tên vào những cây cung bằng gỗ và sừng, nhưng chúng vẫn chưa bắn. Số còn lại trông như được trang bị giáo mác và búa tạ. Một tên cầm chiếc rìu đẽo từ một hòn đá. Chúng chỉ mặc những mảnh giáp nhặt nhạnh từ xác các lính biệt kích hoặc lấy được lúc cướp bóc. Dân du mục không khai mỏ và nấu quặng, và ở bên ngoài Tường Thành có rất ít thợ rèn, xưởng rèn lại càng ít hơn nữa.
Qhorin rút thanh kiếm của mình ra. Câu chuyện về việc ông tự luyện tập để chiến đấu chỉ với bàn tay trái sau khi mất một nửa bàn tay phải là một phần trong huyền thoại về ông; người ta nói ông kiểm soát lưỡi kiếm tốt hơn cả trước kia. Jon đứng vai kề vai với người lính biệt kích to lớn và tuốt thanh Móng Dài ra khỏi bao. Không gian lạnh giá là vậy, nhưng mồ hôi vẫn chảy xuống khiến cậu cay mắt.
Còn cách cửa hang gần mười mét, lũ thợ săn dừng lại. Thủ lĩnh của bọn chúng một mình tiến lên, cưỡi trên lưng một con thú trông giống dê hơn là ngựa, bởi nó leo trèo rất giỏi trên con đường dốc gồ ghề. Khi hắn tiến đến gần hơn, Jon nghe thấy tiếng lách cách; cả người lẫn ngựa đều mặc áo giáp là những khúc xương ghép lại. Xương bò, xương cừu, xương dê, xương bò rừng và nai sừng tấm, những chiếc xương vĩ đại của voi ma mút lông lá… và cả xương người.
“Giáp Xương,” Qhorin gọi với xuống một cách lạnh lùng.
“Đối với lũ quạ thì ta là Lãnh chúa Hài Cốt.” Mũ của hắn làm từ xương sọ của người khổng lồ, và khắp dọc cánh tay hắn là vuốt gấu được gắn vào lớp áo da thuộc.
Qhorin khịt mũi. “Ta chẳng thấy lãnh chúa nào cả, chỉ thấy một con chó mặc chiếc áo bằng xương gà và mỗi chuyển động lại rung lên lách cách.”
Tên du mục rít lên giận dữ, và con ngựa hắn cưỡi cũng lồng lên. Đúng là âm thanh lách cách, Jon cũng nghe thấy. Các khúc xương được buộc sát và lỏng lẻo, vì vậy chúng đập vào nhau kêu lách cách khi hắn di chuyển. “Xương của ngươi cũng sẽ sớm được kêu lách cách thôi, Cụt Tay ạ. Ta sẽ luộc chín ngươi đến khi thịt róc ra và làm áo giáp từ xương sườn của ngươi. Ta sẽ dùng răng ngươi để viết chữ, và ăn cháo yến mạch từ sọ của ngươi.”
“Nếu muốn xương của ta, hãy đến mà lấy.”
Giáp Xương trông có vẻ do dự. Người của hắn tuy đông nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì trước vị trí hai anh em áo đen đang cố thủ, với vách đá bao quanh khá kín đáo. Để lôi họ ra khỏi hang, bọn chúng phải xông lên hai người một. Tuy nhiên, một tên trong số đó đã thúc ngựa tiến lên bên cạnh hắn, một nữ chiến binh, còn được gọi là nữ giáo binh. “Chúng ta có mười bốn, còn lũ quạ các ngươi chỉ có hai. Chúng ta có tám con chó săn, và các ngươi có một con sói,” cô ta nói. “Dù chiến đấu hay bỏ chạy thì các ngươi cũng sẽ thuộc về chúng ta thôi.”
“Đem nó ra đây,” Giáp Xương ra lệnh.
Người phụ nữ thọc tay vào chiếc bao vấy máu và lôi ra một chiến lợi phẩm. Ebben có cái đầu trọc lóc như quả trứng nên cô ta nắm lấy một tai. “Hắn đã chiến đấu khá dũng cảm,” cô ta nói.
“Nhưng cuối cùng thì vẫn chết,” Giáp Xương nói, “các ngươi cũng vậy thôi.” Hắn lấy rìu chiến của Ebben ra và vung vẩy nó phía trên đầu. Chiếc rìu được làm bằng thép tốt, cả hai lưỡi đều sắc lẹm và sáng chói; Ebben luôn chăm chút cho vũ khí của mình rất kỹ. Lũ du mục còn lại tiến lên cạnh hắn, hò hét những lời nhạo báng. Vài tên chọn Jon để chế nhạo. “Đó là con sói của ngươi sao, nhóc con?” một gã trẻ tuổi gầy gò nói to và lôi ra một chiếc chùy bằng đá. “Lông nó sẽ được dùng làm áo choàng cho ta trước khi mặt trời xuống.” Bên kia chiến tuyến, một nữ giáo binh khác cởi chiếc áo khoác lông xơ xác ra và để lộ một bên ngực trắng đồ sộ. “Bé con có muốn đến với mẹ không? Đến đây bú đi này, cậu bé.” Lũ chó cũng sủa lên nhặng xị.
“Bọn chúng muốn biến chúng ta thành trò cười.” Qhorin nhìn Jon một lúc lâu. “Hãy nhớ nhiệm vụ của cậu đấy.”
“Có lẽ chúng ta phải lôi lũ quạ này ra thôi,” Giáp Xương gầm lên đằng sau chiếc mũ giáp. “Bắn rụng lông chúng!”
“Không!” Lời nói bật ra khỏi miệng Jon trước khi cung thủ kịp giương cung. Cậu bước nhanh hai bước lên phía trước. “Chúng tôi đầu hàng!”
“Họ đã cảnh báo ta rằng lũ con hoang rất hèn nhát,” cậu nghe thấy Qhorin Cụt Tay lạnh lùng nói phía sau. “Giờ thì ta đã thấy. Chạy đến chỗ chủ nhân mới của ngươi đi, đồ hèn.”
Jon đỏ mặt đi xuống dốc, nơi Giáp Xương đang ngồi trên ngựa. Tên du mục nhìn cậu chằm chằm qua hai lỗ mắt trên chiếc mũ, rồi nói. “Những người tự do chúng ta không cần những tên hèn nhát.”
“Anh ta không hèn nhát.” Một cung thủ cởi chiếc mũ da cừu ra và lắc lắc mái tóc bù xù đỏ rực. “Đây là tên con hoang vùng Winterfell, kẻ đã thả tự do cho tôi. Hãy để anh ta sống.”
Jon bắt gặp ánh mắt của Ygritte, nhưng không nói lời nào.
“Ta muốn hắn chết,” Lãnh chúa Hài Cốt khăng khăng. “Bọn quạ đen rất tinh ranh. Ta không tin hắn.”
Trên một tảng đá cao, con đại bàng đập cánh và thét lên giận dữ như xé toạc không gian.
“Con chim đó ghét anh, Jon Snow,” Ygritte nói. “Và điều đó cũng dễ hiểu thôi. Hắn ta từng là con người trước khi anh giết hắn.”
“Tôi không biết,” Jon nói rất thật thà. Cậu đang cố nhớ lại khuôn mặt của kẻ cậu đã giết trong quá khứ. “Cô nói rằng Mance sẽ thu nạp tôi mà.”
“Đúng vậy,” Ygritte nói.
“Nhưng thật tiếc là Mance không ở đây,” Giáp Xương xen vào. “Ragwyle, moi ruột hắn!”
Nữ giáo binh to lớn nheo mắt, “nếu con quạ muốn gia nhập hội những kẻ tự do, hãy để hắn chứng minh khả năng và sự thành thực của hắn.”
“Tôi sẽ làm theo bất cứ yêu cầu gì của các người.” Những lời nói đó với Jon thật khó khăn, nhưng cậu đã làm được.
Chiếc áo của Giáp Xương phát ra tiếng lách cách loạn xạ khi hắn phá lên cười. “Vậy thì giết Cụt Tay đi, tên con hoang.”
“Thằng nhãi đó mà đòi giết ta sao,” Qhorin nói. “Quay lại đây, Snow, ngươi sẽ chuốc lấy cái chết.”
Và rồi Qhorin giương kiếm xông tới chỗ Jon. Bất giác, cậu vung Móng Dài lên chặn được đường kiếm. Lực chém mạnh khiến thanh kiếm suýt bật khỏi tay Jon, còn cậu loạng choạng lùi ra phía sau. Cậu không được chùn bước, dù chúng bắt cậu làm gì. Cậu chuyển sang cầm kiếm bằng hai tay và nhanh chóng ra đòn, nhưng người lính biệt kích to lớn đỡ được cú đánh một cách quá dễ dàng. Họ tiến rồi lùi, hai chiếc áo choàng đen xoay tít, sự nhanh nhẹn của tuổi trẻ đấu với những cú ra đòn dữ dội bằng tay trái của Qhorin. Thanh kiếm của Cụt Tay như phân thân, liên tiếp tấn công từ mọi phía và giáng thẳng vào Jon dù cậu đứng ở bất cứ vị trí nào. Jon mất thăng bằng. Và cậu cũng bắt đầu cảm thấy cánh tay mình tê dại.
Ngay cả khi Bóng Ma giận dữ cắn ngập bắp chân người lính biệt kích già, không hiểu sao Qhorin vẫn giữ được thăng bằng. Nhưng khoảnh khắc đó khi ông quay người, Jon đã nhìn thấy điểm hở để tấn công. Cậu vung kiếm chém. Người lính biệt kích nghiêng người tránh, và trong giây lát, nhát chém của Jon tưởng như không chạm được đến người ông. Nhưng rồi một vệt máu xuất hiện quanh cổ người đàn ông to lớn, đỏ tươi như một chiếc vòng cổ bằng hồng ngọc, máu phụt ra từ cổ ông và Qhorin Cụt Tay ngã xuống.
Máu chảy ròng ròng xuống từ mõm Bóng Ma, nhưng thanh kiếm của Jon chỉ vấy máu một chút ở mũi kiếm. Jon kéo con sói đi và quỳ xuống, vòng một tay quanh nó. Ánh sáng đang mờ dần trong mắt Qhorin. “…Sắc lắm,” ông giơ những ngón tay cụt lên lẩm bẩm. Rồi tay ông buông thõng xuống, và Qhorin trút hơi thở cuối cùng.
Ông ấy đã biết trước điều này, Jon lặng người suy nghĩ. Ông ấy biết bọn chúng sẽ bảo ta làm gì. Cậu nghĩ về Samwell Tarly, về Grenn và Edd U Sầu, về Pyp và Toad ở Hắc Thành. Chẳng lẽ cậu đã mất tất cả bọn họ, cũng như Bran và Rickon và Robb hay sao? Giờ thì cậu là ai, là cái gì đây?
“Đỡ hắn dậy.” Đôi bàn tay thô ráp kéo cậu đứng lên, và cậu cũng không phản kháng. “Ngươi có tên không?”
Ygritte trả lời thay Jon. “Tên hắn là Jon Snow. Hắn là con của Eddard Stark, vùng Winterfell.”
Ragwyle cười lớn. “Chẳng ai ngờ được nhỉ? Qhorin Cụt Tay bị giết bởi tên con hoang của một lãnh chúa.”
“Moi ruột hắn.” Giáp Xương vẫn ngồi trên ngựa nói vọng xuống. Con đại bàng bay tới đậu trên chiếc mũ xương của hắn và ré lên.
“Anh ta đầu hàng rồi,” Ygritte nhắc lại.
“Đúng, và đã giết chết người anh em của hắn,” một người thấp lùn thô kệch đội mũ sắt nửa đầu rỉ sét nói.
Giáp Xương tiến đến gần, tiếng những khúc xương kêu lách cách. “Con sói đã làm hết phần việc của hắn. Thật là trò ăn gian đê tiện. Chiến công giết Cụt Tay là của ta.”
“Chúng tôi đều thấy anh khát khao điều đó thế nào rồi,” Ragwyle chế nhạo.
“Hắn có thể là người đội lốt,” Lãnh chúa Hài Cốt nói, “và là một con quạ. Ta không thích hắn.”
“Có thể anh ta là người đội lốt,” Ygritte nói, “nhưng chúng tôi chưa bao giờ sợ điều đó.” Những người khác đồng thanh hô to thể hiện sự đồng tình. Đằng sau hai lỗ mắt trên chiếc mũ sọ màu vàng, ánh mắt tàn ác của hắn nhìn Jon, nhưng cuối cùng hắn vẫn phải miễn cưỡng đồng ý. Ở đây, họ đúng là những người tự do, Jon nghĩ.
Họ thiêu Qhorin Cụt Tay ngay nơi ông ngã xuống, trên một giàn thiêu bằng quả thông, cây bấc và các cành cây gẫy. Vài cành cây vẫn còn xanh nên cháy chậm và khói bốc lên mù mịt, một cột khói đen bay lên bầu trời trong xanh của buổi bình minh. Sau đó, Giáp Xương giành lấy vài khúc xương cháy, còn những kẻ khác tranh nhau bộ yên cương của ông. Ygritte lấy được chiếc áo choàng.
“Chúng ta sẽ trở về Đèo Skirling chứ?” Jon hỏi cô. Cậu không biết liệu cậu còn có thể trèo lên cao như vậy, hay con ngựa của cậu có sống sót để băng qua đó lần thứ hai hay không.
“Không,” cô nói. “Không còn gì ở phía sau chúng ta nữa.” Cô nhìn cậu buồn bã. “Lúc này Mance đã ở tít dưới hạ lưu sông Milkwater rồi, đang hành quân về phía Tường Thành của anh.”