The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn
Tác giả: Andrzej Sapkowski
Dịch giả: Tổng hợp
Số chương: 11
Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới
“Ta có thể cho ngươi mọi thứ ngươi muốn”, bà tiên nói. “Của cải, vương miện và quyền trượng, danh tiếng, một cuộc đời hạnh phúc dài lâu. Chọn đi.”
“Tôi không muốn của cải hay danh tiếng, vương miện hay quyền trượng,” nữ witcher trả lời. “Tôi ước một con ngựa đen và nhanh như ngọn gió đêm. Tôi ước một thanh kiếm sắc và sáng như ánh trăng rằm. Tôi muốn bước qua thế giới trên con ngựa đen trong đêm thâu, tôi muốn đánh bại sức mạnh của Cái Ác bằng thanh kiếm sáng. Đó là tất cả những gì tôi khao khát.”
“Ta sẽ cho ngươi một con ngựa đen hơn màn đêm và nhanh hơn ngọn gió,” bà tiên hứa. “Ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, sắc và sáng hơn ánh trăng rằm. Nhưng ngươi đòi hỏi ở ta rất nhiều, nữ witcher, và cái giá phải trả sẽ là rất lớn.”
“Bằng cái gì? Bởi tôi không có gì cả.” “Bằng máu của ngươi.”
– Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.
Âm thanh của cánh cửa cọt kẹt mở ra rồi đóng lại đã đánh thức người trẻ hơn trong hai chị em nhà Scarra. Cô chị cả đang ngồi ở bàn và bận vét nốt cháo thịt lợn từ dưới đáy một cái bát thiếc.
“Phiên tòa thế nào, Kenna?”
Joanna Selborne, gọi là Kenna, không nói câu nào. Cô ta ngồi trên giường, cùi chỏ chống lên đầu gối và tay ôm mặt.
Cô em ngáp và ợ một tiếng to. Trên chiếc giường đối diện, Kohout lầm bầm thứ gì đó và quay đi. Hắn tức giận với Kenna, với hai chị em, với toàn bộ thế giới.
Trong những nhà tù thông thường, tù nhân được phân chia theo giới tính. Các pháo đài quân sự thì lại khác. Hoàng đế Fergus var Emreis, trong một sắc lệnh công nhận quyền bình đẳng của phụ nữ trong quân đội, đã ra lệnh rằng nếu đã được ban hành thì bình đẳng phải được ban hành ở mọi nơi và mọi khía cạnh, không ngoại lệ, hay đặc quyền dành cho giới tính nào. Kể từ lúc đó, trong các pháo đài và tòa thành, tù nhân được tống giam vào các nhà lao chung.
“Thế nào?” Người chị cả Scarra hỏi lại câu hỏi lúc trước. “Họ có thả cô ra không?”
“Công lý,” Kenna cay đắng trả lời, hai tay vẫn ôm đầu. “Tôi sẽ không bị treo cổ là may lắm rồi. Mẹ kiếp! Tôi đã kể hết sự thật và không giấu diếm gì cả, chà, gần như là không. Và cái thằng khốn đó bắt đầu khiến tôi trông như kẻ điên, hắn tuyên bố rằng tôi không đáng tin và là một tên tội phạm, và cuối cùng thì buộc tội tôi dính lứu vào âm mưu nhằm lật đổ…”
“Lật đổ,” người chị cả Scarra nói, vờ như hiểu cô ta và lắc đầu. “Nếu là về chuyện lật đổ thì cô đi đời rồi, Kenna.”
“Cứ như là tôi không biết rồi ý.”
Cô em Scarra lại duỗi mình và ngáp một tiếng to như một con báo, nhảy xuống khỏi giường trên, đá một cái ghế đang nằm ngáng đường và khạc một bãi xuống sàn. Kohout ậm ực, nhưng không dám di chuyển.
Kohout giận dữ điên cuồng với Kenna. Nhưng hắn sợ hai chị em.
Khi Kenna bị chuyển về buồng giam này 3 ngày trước, Kohout đã bày tỏ rõ ràng ý kiến của mình về bình đẳng và quyền lợi của phụ nữ. Giữa đêm hắn trùm một tấm chăn lên nửa thân trên của Kenna với ý định sử dụng nửa thân dưới, mà chắc chắn là sẽ thành công nếu không phải vì con mồi của hắn là một nhà ngoại cảm. Kenna xâm nhập vào não Kohout và khiến hắn tru lên như ma sói và bò quanh buồng giam như thể bị nhện cắn. Kenna, hoàn toàn vì hận thù, đã ép hắn bò bằng tứ chi và đập đầu vào cánh cửa kim loại của buồng giam. Khi nghe thấy âm thanh kinh khủng đó, lính gác chạy tới và đập cho Kohout một trận, hắn nhận 5 đánh vào đầu bằng dùi cùi và cơ man các cú đá. Nói tóm lại, Kohout đã không được tận hưởng đêm sung sướng như mình đã trông đợi. Và hắn trở nên tức giận với Kenna. Hắn thậm chí còn không dám nghĩ về báo thù, bởi ngày hôm sau họ bị tống giam cùng chị em nhà Scarra. Vậy là phái nữ đã chiếm ưu thế hơn và trên cả, Kohout sớm nhận ra rằng quan điểm về bình đẳng giới của hai chị em cũng tương tự như mình, chỉ có điều đảo ngược hoàn toàn về vai trò của hai bên. Cô em Scarra nhìn vào mắt hắn như một con thú săn mồi và thốt lên những lời bình phẩm rõ ràng, không thể nhầm lẫn trong khi cô chị chỉ cười và xoa tay vào nhau. Kết quả là Kohout phải ngủ với một cái ghế gỗ, mà trong trường hợp cần thiết hắn sẽ dùng để bảo vệ nhân phẩm của mình. Nhưng kể cả nếu sự đe dọa là thật thì cơ hội của hắn vẫn rất mong manh – cả hai chị em đều đã từng phục vụ trong quân ngũ và là những người lính dày dạn kinh nghiệm. Họ sẽ không đầu hàng trước một cái ghế gỗ nếu có bao giờ muốn cưỡng bức và xâm hại Kohout, kể cả khi gã đàn ông có vũ trang bằng một cây rìu đi chăng nữa. Kenna chắc chắn rằng hai chị em chỉ nói đùa. Ít ra thì, gần như chắc chắn.
Hai chị em phải vào tù vì tội đánh đập một sĩ quan, trong khi Kohout thì đang trong quá trình điều tra một vụ lừa đảo liên quan đến ăn cắp chiến lợi phẩm chiến tranh mà đã trở nên đình đám và liên lụy đến các tầng lớp cao hơn.
“Cô tiêu đời rồi, Kenna,” người chị Scarra nhắc lại. “Cô đang ngập trong bãi cứt rồi. Hoặc chỉ dính tí xíu thôi. Vì cô chưa nhận ra rằng đây là một trò chơi chính trị!”
“Bah!”
Scarra nhìn cô ta, không biết phải hiểu lời ca thán một âm tiết như thế nào cho đúng. Kenna quay đi.
Tôi sẽ không nói cho cô là mình đã câm như hến trước quan tòa, cô ta nghĩ. Rằng tôi biết mình đang vướng vào cái gì. Hay khi nào và bằng cách nào mà tôi đã nhận ra nó.
“Cô đã ngậm nhiều hơn số mình có thể nuốt,” người em Scarra trẻ hơn rất nhiều nói với vẻ thông thái, mà theo như Kenna thì đang chẳng hiểu chuyện gì được bàn ở đây cả.
“Chuyện gì đã xảy ra với cô công chúa Cintra?” cô chị Scarra không bỏ cuộc. “Các cô đã tóm được cô ta rồi mà, đúng không?”
“Đã tóm được. Nếu cô có thể nói vậy…Hôm nay là ngày bao nhiêu?” “22 tháng Chín. Ngày mai là thu phân.”
“Ha. Đúng là một sự trùng hợp. Ngày mai sẽ là tròn một năm kể từ khi xảy ra những sự kiện đó…một năm…”
Kenna nằm trên giường, tay gối sau đầu. Hai chị em im lặng, hy vọng rằng đây là lời mở đầu cho một câu chuyện.
Không đâu, các chị em à, Kenna nghĩ, nhìn vào những câu chữ bẩn thỉu được vẽ trên gầm chiếc giường trên. Sẽ không có câu chuyện nào cả. Và không phải bởi vì Kohout sẽ bán đứng tôi cho bọn cớm chó má hay một nhân chứng nào khác. Tôi chỉ không muốn nói về nó thôi. Tôi không muốn nhớ.
Chuyện đã xảy ra một năm về trước…sau khi Bonhart đã vuột khỏi tay chúng tôi ở Claremont.
Chúng tôi tới đó trễ hai ngày, cô ta nhớ lại, và dấu vết đã nguội lạnh rồi. Không ai biết tên thợ săn tiền thưởng đã đi đâu. Không ai biết ngoại trừ gã thương nhân Houvenaghel. Nhưng Houvenaghel không muốn nói chuyện với chúng tôi hay Skellen và thậm chí còn không để chúng tôi vào nhà, thay vào đó đã cử một người đày tớ ra nói rằng lão không có thời gian để tiếp chuyện chúng tôi. Cú Nâu lầm lì và tỏ ra khó chịu, nhưng tôi còn làm gì được đây? Đó là Ebbing và chúng tôi chẳng có thẩm quyền nào ở đó. Và thêm nữa, bản thân chúng tôi cũng không thể tự đuổi theo Houvenaghel, bởi vì lão có cả một đội quân riêng ở Claremont và chúng tôi không thể gây chiến…
Boreas Mun lần dấu vết, Dacre Silifant và Ola Harsheim cố mua chuộc, Til Echrade thử dùng ma thuật của elves và tôi cố xâm nhập suy nghĩ và lắng nghe, nhưng chẳng được ích nhiều lắm. Chúng tôi biết rằng Bonhart đã rời thành phố qua cánh cổng phía nam. Và trước khi đi…
Tại khu chợ gần cánh cổng phía nam có một ngôi miếu nhỏ. Trước khi rời Claremont, Bonhart đã quật Falka trước ngôi miếu. Trước mặt tất cả mọi người, bao gồm cả các tư tế. Hắn hét lên rằng sẽ cho cô ta biết chủ nhân thực sự của cô ta là ai. Rằng hắn sẽ đánh cô ta bất cứ nơi nào tùy thích, và nếu muốn hắn có thể đánh đến chết, vì sẽ chẳng ai can ngăn, chẳng ai giúp đỡ cô ta được, người hay thần.
Cô em Scarra nhìn ra ngoài cửa sổ, bám lấy những chấn song. Cô chị ngồi ăn cháo thịt lợn.
Kohout lấy lại cái ghế, nằm xuống và đắp chăn kín người.
Họ nghe thấy tiếng chuông từ vọng gác và tiếng gọi của quân lính… Kenna quay mặt vào tường.
Một vài ngày sau khi chúng ta gặp mặt, cô ta nghĩ. Tôi và Bonhart. Mặt đối mặt. Tôi đã nhìn vào đôi mắt cá không phải người của hắn, và nó chỉ hiện lên một điều duy nhất – làm thế nào để đánh đập cô gái này. Và tôi đọc qua những suy nghĩ của hắn…chỉ trong giây lát. Và nó như thể cắm đầu vào một nấm mồ…
Chuyện này xảy ra vào đêm thu phân.
Và vào rạng sáng ngày 22 tháng Chín, tôi nhận ra rằng giữa chúng tôi tồn tại một thứ vô hình.
***
Stefan Skellen, thanh tra trưởng hoàng gia lắng nghe mà không cố ý ngắt lời. Nhưng Kenna đã nhìn thấy sự thay đổi trên nét mặt ông ta.
“Nhắc lại đi, Selborne,” ông ta dài giọng. “Nhắc lại đi, ta không tin đôi tai mình.”
“Cẩn thận đấy, ngài thanh tra,” cô ta lầm bầm. “Hãy cứ giả vờ giận dữ…như thể tôi đang có yêu cầu và ngài đang khước từ nó vậy. Ít ra thì ngoài mặt. Tôi không nhầm đâu. Trong vòng ít nhất hai ngày nay, một tên gián điệp vô hình đang lởn vởn quanh chúng ta.”
Cú Nâu buộc phải thừa nhận là mình đã hiểu và ngay lập tức đáp trả.
“Không, Selborne, ta từ chối,” ông ta nói to, nhưng tránh làm quá lên với tông giọng và cử chỉ. “Kỷ luật phải áp dụng lên tất cả. Không ngoại lệ. Ta không đồng ý!”
“Cứ nghe tôi đã, ngài thanh tra.” Kenna nói. Cô ta không có khả năng diễn kịch như Cú Nâu, nhưng trong trường hợp này sự thiếu chắc chắn và tự ti của người đâm đơn lại tỏ ra khá hiệu quả. “Ít nhất thì hãy nghe tôi đã…”
“Nói đi, Selborne! Nhưng ngắn và súc tích thôi!”
“Chúng đã theo dõi chúng ta hai ngày nay rồi,” cô ta lầm bầm, vờ như đang khiêm nhường giải thích lý do. “Từ Claremont. Chúng đã bí mật theo đuôi chúng ta, và đột nhập vào trại này để do thám người của ta.”
“Con mẹ nó, gián điệp,” Skellen không cần phải giả vờ tức giận, giọng ông ta run rẩy vì phẫn nộ. “Làm sao mà cô phát hiện ra được?”
“Khi ngài giao mệnh lệnh cho anh Silifant tối hôm qua trước quán trọ, một con mèo đang ngủ trên băng ghế bỗng rít lên, xù lông và ép tai xuống. Ban đầu thì tôi không để ý lắm, vì chả có ai ở đấy cả…Rồi tôi bắt được một thứ – một suy nghĩ kỳ lạ, của ai đó khác. Khi ngài suy nghĩ, ngài thanh tra, những suy nghĩ của ngài sẽ nghe rất bình thường, nhưng cái suy nghĩ kỳ lạ này lại giống như thể ai đó đang hét to lên vậy…tôi bắt đầu chăm chú lắng nghe, và tìm thấy hắn.”
“Cô lúc nào cũng cảm nhận được hắn sao?”
“Không phải luôn luôn. Suy nghĩ của hắn như thể được bảo vệ bằng phép thuật hay sao vậy. Tôi chỉ có thể cảm nhận được nó khi ở gần, và ngay cả như thế cũng chưa chắc thành công. Do đó, chúng ta phải diễn kịch, bởi tôi không biết liệu hắn có đang ở gần đây hay không.”
“Chỉ cần đừng làm hắn kinh động,” Cú Nâu gầm gừ. “Đừng làm hắn kinh động. Ta muốn bắt sống hắn, Selborne. Cô gợi ý sao?”
“Chúng ta sẽ làm bánh kếp.” “Bánh kếp?”
“Hạ giọng xuống, ngài thanh tra.”
“Nhưng…ah, kệ đi. Đồng ý. Ta sẽ để cô toàn quyền lo liệu.”
“Ngài mai hãy sắp xếp cho chúng tôi nghỉ lại qua đêm ở một ngôi làng. Tôi sẽ lo phần còn lại. Và giờ, hãy xỉa xói tôi trước khi tôi đi.”
“Ta sẽ không xỉa xói cô,” ông ta nháy mắt với Kenna, nhưng rồi khuôn mặt lấy lại dáng vẻ của một chỉ huy nghiêm khắc. “Ta rất hài lòng với cô, quý cô Selborne.”
Ông ta nói quý cô. Quý cô Selborne. Như một sĩ quan. Ông ta lại nháy mắt lần nữa. “Không!” ông ta gầm lên, khoát tay và diễn vai của mình thật hoàn hảo. “Yêu cầu bị từ chối! Biến đi!”
“Như ngài ra lệnh, thanh tra.”
***
Ngày hôm sau, vào lúc chiều muộn, Skellen ra lệnh cho họ dừng lại ở một ngôi làng bên bờ sông Lete. Ngôi làng khá khang trang, được bao quanh bởi một bức tường với một cánh cổng lớn xoay trên một trục. Ngôi làng có tên Kỳ Lân. Và nó lấy cái tên của mình từ một nhà nguyện nhỏ đắp bằng đá, nơi có đặt một con búp bê rơm giống hình kỳ lân.
Chúng ta đã cười nhạo vị thần rơm bé nhỏ ấy, Kenna nhớ lại, và ông trưởng làng, với một vẻ mặt nghiêm trọng, đã nói rằng Kỳ Lân linh thiêng đã bảo vệ ngôi làng này nhiều năm qua ban đầu được đúc bằng vàng, rồi bạc, rồi đồng, rồi thậm chí đến vài phiên bản từ xương và gỗ. Nhưng tất cả đều đã bị lấy trộm. Chỉ từ lúc nó làm bằng rơm là được để yên thân.
Chúng ta ở lại ngôi làng một đêm. Như giao hẹn, Skellen rúc vào trong một cái lán xập xệ. Và trong vòng chưa đến một giờ chúng ta đã biến tên gián điệp vô hình thành cái bánh kếp. Theo cách truyền thống.
***
“Lại gần đây nào,” Cú Nâu ra lệnh. “Lại gần đây và nhìn qua văn bản này đi…đợi đã! Mọi người ở đây cả chưa? Ta không muốn phải giải thích chuyện này hai lần đâu.”
Ola Harsheim đang ngồi ăn một cốc kem, chùi đi sữa dính trên ria mép, bỏ cốc xuống, nhìn xung quanh và đếm.
“Dacre Silifant, Bert Brigden, Neratin Ceka, Til Echrade, Joanna Selborne…Không có Dufficey.”
“Gọi hắn đi.”
“Kriel! Dufficey Kriel! Tới phòng chỉ huy nghe họp! Mệnh lệnh quan trọng! Chạy nhanh lên!”
Dufficey Kriel hớt hải chạy vào phòng.
“Tất cả ở đây rồi, ngài thanh tra.” Ola Harsheim nói.
“Mở cửa sổ ra, mùi tỏi ở đây nồng nặc đến nỗi không thở được. Và mở cả cửa chính ra nữa, cho gió lùa vào.”
Brigden mở cửa và Kenna lại lần nữa được chứng kiến tài diễn xuất tuyệt vời của Cú Nâu. “Lại gần hơn đi. Ta đã nhận được một tài liệu bí mật và cực kỳ quan trọng từ Hoàng đế.
Cẩn thận…”
“Ngay bây giờ!” Kenna hét lên, phát đi một xung nhịp mạnh tương đương với hiệu ứng khi bị sét đánh.
Ola Harsheim và Dacre Silifant cầm xô lên và hất kem vào nơi mà Kenna đã chỉ. Til Echrade nhanh chóng quăng ra một bao bột mỳ giấu dưới gầm bàn. Trên sàn phòng hiện lên một thân hình bám đầy kem và bột mỳ mà ban đầu vẫn còn vô dạng. Nhưng Bert Brigden quan sát, phán đoán chuẩn xác đầu của cái bánh kếp nằm ở đâu, và phang nó bằng một cái chảo sắt nặng chịch.
Mọi người xúm lại tên gián điệp kem và bột mỳ, lôi một cái mũ tàng hình ra khỏi đầu hắn và nắm lấy tay chân hắn. Họ đem hắn tới một cái bàn và trói chặt lại. Họ tước ủng và tất của hắn, và nhét một cái tất vào mồm để làm hắn câm miệng.
Để hoàn tất công việc, Dufficey Kriel sung sướng đá một cú vào sườn hắn và mọi người cùng nhìn với vẻ thỏa mãn đôi mắt tên gián điệp lồi ra khỏi tròng.
“Tốt lắm,” Cú Nâu lên tiếng, xuyên suốt toàn bộ sự việc đã không rời khỏi vị trí của mình nửa phân và đứng khoanh tay vào nhau. “Ta có lời khen mọi người. Đặc biệt là quý cô Selborne.”
Úi chà, Kenna nghĩ, cứ tiếp tục thế này thì mình thành sĩ quan đến nơi.
“Ngài Brigden,” Stefan Skellen lạnh lùng nói, đứng bên cạnh tên tù nhân đang bị trói vào bàn. “Hãy đặt một que sắt vào lò sưởi. Anh Echrade, xin hãy để mắt đến trẻ nhỏ quanh căn phòng.”
Ông ta cúi xuống và nhìn vào đôi mắt của tên tù nhân.
“Đã lâu rồi kể từ lần cuối ngươi xuất hiện đấy nhỉ, Rience.” Ông ta nói. “Ta đã bắt đầu nghĩ là có chuyện bất hạnh xảy đến với ngươi rồi cũng nên.”
***
Tiếng chuông đổi gác vang lên. Hai chị em Scarra ngáy theo nhịp. Kohout lầm bầm trong giấc ngủ, ôm chặt cái ghế gỗ.
Hắn cố ra vẻ dũng cảm, Kenna nhớ lại, Rience giả vờ như không sợ hãi. Tên pháp sư Rience, trông như một cái bánh kếp, bị trói vào chân bàn và lột giày. Hắn cố ra vẻ dũng cảm. Tuy nhiên chẳng đánh lừa được ai cả, chí ít là mình. Cú Nâu đã cảnh báo với mình rằng hắn là một pháp sư, vậy nên mình đã sục sạo trong tâm trí hắn để hắn không thể làm phép hay cố cầu cứu bằng ma thuật được. Và mình đã đọc chúng. Hắn cố bảo vệ chúng, nhưng khi ngửi thấy mùi khói bốc lên từ đống than đang nung nóng que sắt, lớp rào chắn ma thuật của hắn tụt xuống như một cặp quần đùi cũ mòn, và mình có thể đọc thỏa thích. Những suy nghĩ của hắn cũng không khác lắm so với những kẻ ở trong tình thế tương tự.
Những suy nghĩ mê sảng, run rẩy vì sợ hãi và tuyệt vọng. Những suy nghĩ lạnh lẽo, trơn tuột, ẩm ướt và bốc mùi. Như bên trong một cái xác.
***
“Chà, Skellen, ông thắng, ông tóm được tôi rồi. Xin chúc mừng. Tôi cúi đầu trước kỹ năng nhà nghề và chuyên nghiệp của ông. Tôi ghen tị với các thuộc hạ được huấn luyện bài bản của ông. Và giờ thì hãy giải thoát cho tôi khỏi tình thế khó chịu này nào.”
Cú Nâu lại gần một cái ghế, xoay ngược lại và ngồi lên nó, cằm tựa lên hai bàn tay đan nhau trên lưng ghế. Ông ta nhìn xuống tên tù nhân. Và im lìm.
“Ra lệnh cho họ thả tôi ra, Skellen.” Rience nhắc lại. “Và rồi hãy bảo họ rời đi. Những gì tôi sắp nói chỉ dành riêng cho ông mà thôi.”
“Ngài Brigden,” Cú Nâu nói mà không quay đầu lại. “Que sắt có màu thế nào rồi?” “Vẫn cần phải đợi thêm một chút, ngài thanh tra.”
“Quý cô Selborne?”
“Giờ thì khó đọc hắn hơn,” Kenna nhún vai. “Hắn quá sợ. Và nỗi sợ đang kiềm chế mọi suy nghĩ khác. Tuy vậy, hắn vẫn cố giấu một vài suy nghĩ đằng sau rào chắn ma thuật. Nhưng không thành vấn đề, tôi có thể…”
“Không cần. Chúng ta sẽ dùng đến phương pháp truyền thống – que sắt nung đỏ.” “Mẹ kiếp!” tên gián điệp rú lên. “Skellen! Ông không định…”
Cú Nâu nghiêng về phía trước, nét mặt hơi thay đổi.
“Đầu tiên, phải gọi là ngài Skellen.” Ông ta nói. “Thứ hai, đúng đấy. Ta sẽ cù léc ngươi bằng một que sắt nóng. Ta sẽ làm vậy với niềm sung sướng vô ngần. Và ta sẽ coi nó như là sự công bằng của lịch sử. Ta cược là ngươi không hiểu thế nghĩa là gì.”
Rience im lặng, vậy nên Skellen nói tiếp.
“Ngươi biết không, Rience, ngay từ hồi đó, bảy năm về trước, ta đã khuyên Vattier de Rideaux nên tống cổ ngươi đi, khi ngươi bò lên những bậc thềm của Sở Tình Báo Đế chế như một con chó, van xin được làm một gián điệp hai mang. Ta cũng đã cho ông ta lời khuyên y hệt bốn năm trước, khi ngươi bò lên mông của Emhyr và bắt đầu đóng vai trò trung gian liên lạc với Vilgefortz. Và khi ngươi nhận được nhiệm vụ săn lùng con bé Cintra, ngươi đã chuyển hẳn thành một tên phản trắc vĩnh viễn. Ta đã cược với Vattier rằng nếu chúng ta cho ngươi nếm mùi sắt nung, chúng ta khắc tìm ra ngay ngươi thực sự phục vụ ai…Không, nói thế thì không đúng lắm. Chúng ta khắc tìm ra tất cả những ai ngươi đã từng phụng sự và từng phản bội. Và ta cam đoan với Vattier rằng ông ta sẽ ngạc nhiên khi trông thấy hai bản danh sách đó trùng nhau nhiều thế nào. Nhưng Vattier de Rideaux đã phớt lờ ta. Và giờ thì ông ta ắt đã thấy hối hận rồi. Nhưng chẳng mất mát gì cả. Ta sẽ nướng chả ngươi một chút, để tìm hiểu xem ngươi biết những gì, và rồi ta sẽ phó mặc ngươi cho Vattier. Và ông ta sẽ lột da ngươi thật từ tốn, từng mảnh nhỏ một.”
Cú Nâu lôi ra một cái khăn tay và một lọ nước hoa từ trong túi. Ông ta rắc nước hoa lên khăn và bịt vào mũi. Nước hoa có mùi xạ hương dễ chịu, thế nhưng Kenna vẫn thấy buồn nôn.
“Que sắt, ngài Brigden.”
“Tôi đã bám theo ngài theo lệnh của Vilgefortz!” Rience la lên. “Là đứa con gái! Tôi đã bám theo biệt đội của ngài, hy vọng có thể kìm chân họ trước khi họ kịp tóm được tên thợ săn tiền thưởng! Tôi có nhiệm vụ phải cố thuyết phục hắn trao đổi đứa con gái! Từ hắn, không phải từ ngài! Vì ngài muốn giết cô ta còn Vilgefortz cần cô ta sống! Ngài muốn biết gì nữa? Tôi sẽ nói! Tôi sẽ nói hết!”
“Úi chà!” Cú Nâu thốt lên. “Chậm thôi! Quá nhiều tiếng ồn và thông tin có thể khiến người ta thấy đau đầu. Tưởng tượng được không, các quý ngài, rằng chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta nướng hắn thật? Chúng ta chắc sẽ điếc tai luôn không chừng!”
Kriel và Silifant phá lên cười, nhưng Kenna và Neratin Ceka im lặng. Bert Brigden cũng giữ tác phong nghiêm túc trong khi lôi que sắt ra từ đống than hồng và chăm chú nhìn nó. Que sắt nóng tới mức trông gần như trong suốt – như dung nham đựng trong một bình thủy tinh.
Rience nhìn thấy nó và la hét.
“Tôi biết cách tìm ra tên thợ săn tiền thưởng và con bé Cintra! Tôi biết cách! Tôi sẽ nói cho ngài!”
“Ta không nghi ngờ điều đó.”
Kenna, vẫn đang cố đọc suy nghĩ của hắn, nhăn mặt khi vấp phải một làn sóng căm phẫn và tuyệt vọng. Trong não Rience, lại có thứ vỡ tan, lại một rào cản nữa. Hắn quá sợ rằng mình sẽ lỡ miệng thốt ra cái gì đấy, Kenna nghĩ, một thứ mà hắn để dành đến lúc cuối như một con át chủ bài, một con át có thể đánh bật mọi quân bài khác trong lần đấu giá cuối cùng. Giờ thì nỗi sợ đau đớn sẽ lật mở lá bài đó trên bàn.
Đột nhiên có thứ chảy vào đầu cô ta, Kenna cảm nhận thái dương chợt nóng, và chợt lạnh.
Và cô ta biết. Cô ta đã tìm thấy suy nghĩ ẩn giấu của Rience.
Thần linh ơi, cô ta nghĩ, mình đã vướng phải cái gì đây…
“Tôi sẽ nói!” Tên pháp sư la hét, mặt đỏ lựng và chiếu đôi mắt lồi lên Cú Nâu. “Tôi sẽ nói cho ngài một điều vô cùng quan trọng, Skellen! Vattier de Rideaux…”
Kenna đột nhiên nghe thấy một suy nghĩ lạ lùng khác. Cô ta trông thấy bàn tay cầm dao của Neratin Ceka bò gần về cửa.
Tiếng những đôi ủng vang lên. Boreas Mun bước vào căn phòng.
“Ngài thanh tra! Nhanh lên, ngài thanh tra! Ngài sẽ không tin nổi ai vừa đến đâu…”
Skellen ra hiệu cho Brigden, đang di chuyển que sắt lại gần tên gián điệp, dừng lại bằng một động tác ngắn.
“Ngươi có lẽ nên chơi sổ xố thử xem, Rience.” Ông ta nói, nhìn ra ngoài cửa sổ. “Ta chưa từng gặp ai may mắn được như ngươi.”
Qua khung cửa sổ họ có thể trông thấy một nhóm người, và đứng ở giữa là một cặp đôi trên lưng ngựa. Kenna biết ngay lập tức rằng họ là ai. Cô ta biết người đàn ông cao lớn với đôi mắt cá nhợt nhạt trên lưng con ngựa màu be. Và cô gái tóc xám trên lưng một con ngựa đen tuyệt đẹp. Bàn tay bị trói và xích buộc quanh cổ. Những vết bầm tím trên đôi má sưng phồng.
***
Vysogota quay trở lại căn lều trong tâm trạng tồi tệ, phiền não, im lìm và thậm chí còn bực dọc. Nguyên nhân là vì cuộc trò chuyện cùng một người dân làng đã chèo thuyền ra đây để lấy da thuộc của ông ta. “Đây có thể sẽ là lần cuối cùng trước mùa xuân,” người nông dân nói. “Thời tiết đang trở nên tệ hơn từng ngày, mưa và gió đã khiến việc đi thuyền khá là nguy hiểm. Sáng nay đã có băng đọng lại trong vũng nước, tôi nghĩ chúng ta sẽ sớm thấy tuyết thôi. Dòng sông sẽ đóng băng và tôi sẽ phải cất con thuyền đi và lôi ra cái xe trượt. Nhưng ở Pereplut này trượt xe còn không nổi, vì sương mù dày đặc.”
Người nông dân nói đúng. Tối đến bầu trời dày đặc mây và tuyết bắt đầu nặng hạt. Gió thổi từ hướng đông đè rạp những bụi hoa súng và dậy sóng trên mặt con sông phẳng lặng. Cái lạnh bò vào những khớp xương cũ kỹ của ông già.
Ngày kia, Vysogota nghĩ, là lễ hội Saovine. Theo lịch của người elves thì ba ngày sau sẽ là đến năm mới. Theo lịch của con người thì chúng ta sẽ phải đợi thêm hai tháng nữa.
Kelpie, con ngựa đen của Ciri, giậm chân và khụt khịt trong chuồng dê.
Khi bước vào chòi, ông tìm thấy Ciri đang lục lọi trong đống rương hòm. Vysogota để cô bé làm vậy, thậm chí còn khuyến khích. Thứ nhất, đây là một thú vui mới mẻ, sau việc cưỡi Kelpie và đọc sách. Thứ hai, trong rương có khá nhiều đồ của con gái ông và Ciri thì cần quần áo ấm hơn. Vài bộ, bởi đã ẩm và lạnh trong nhiều ngày và đống quần áo đang phơi vẫn chưa khô.
Ciri chọn, mặc thử, lắc đầu và cởi ra. Vysogota ngồi ở bàn. Ông ăn hai củ khoai luộc và cánh gà. Ông giữ im lặng.
“Đẹp lắm,” cô đưa cho ông xem một món đồ mà ông đã không nhìn thấy trong nhiều năm và quên mất là có nó. “Của con gái ông à? Cô ấy thích trượt băng sao?” “Con bé yêu trượt băng. Nó luôn mong ngóng đến mùa đông.” “Tôi lấy được không?”
“Cứ lấy những gì cô muốn,” ông nhún vai. “Ta không cần chúng. Nếu chúng hữu dụng với cô và vừa vặn…Nhưng đây có phải là đóng gói hành lý không, Ciri? Cô đang chuẩn bị đi à?”
“Phải, Vysogota,” cô nói sau một lúc im lặng. “Tôi đã quyết định. Bởi vì, ông biết đấy… không còn nhiều thời gian nữa.”
“Những giấc mơ của cô?”
“Phải,” cô thú nhận. “Tôi đã thấy những điềm gở trong mơ. Tôi không chắc là chúng đã xảy ra chưa, hay đây chỉ là tương lai. Tôi không biết liệu mình có thể ngăn chặn chúng được không…nhưng tôi phải đi. Ông thấy đấy, tôi đã từng oán hận rằng bạn bè đã không đến cứu mình. Rằng tôi bị bỏ mặc cho số phận…Nhưng giờ thì tôi nghĩ rằng có lẽ chính họ mới là người cần tôi giúp. Tôi phải đi.”
“Mùa đông đang tới.”
“Đó là lý do vì sao tôi phải đi. Nếu ở lại, tôi sẽ bị mắc kẹt cho đến mùa xuân…Trong khoảng thời gian đó tôi sẽ phát điên vì ủ dột, lo lắng và ám ảnh bởi những cơn ác mộng. Tôi phải đi, tôi phải đi ngay bây giờ và thử tìm Tháp Nhạn. Cổng dịch chuyển. Ông cũng đã dự đoán rằng đi lên thượng nguồn sẽ chỉ mất 15 ngày. Tôi có thể tới đó trước trăng tròn tháng Chín…”
“Cô không thể rời khỏi nơi này được,” ông lầm bầm khó khăn. “Không phải bây giờ.
Những kẻ truy đuổi cô đang ở gần…rất gần. Cô không thể…” Cô ném một chiếc áo sơ mi xuống và bật dậy như lò xo.
“Ông đã nghe được tin gì đó,” cô nói dõng dạc. “Từ người dân làng tới đây để lấy da thuộc.
Kể cho tôi đi.”
“Ciri…”
“Kể cho tôi đi, làm ơn!” Ông kể. Và hối hận sau này.
***
“Tôi nghĩ quỷ dữ đã cử chúng đến, ngài ẩn sĩ đáng kính à,” người nông dân lầm bầm, tạm ngừng một lúc để đếm da. “Tôi đoán là quỷ dữ. Kể từ đêm thu phân chúng đã lang thang quanh khu rừng, tìm kiếm một đứa bé gái. Rồi chúng vào làng, la ó, đe dọa, chửi rủa, nhưng lại đi tiếp. Chà, chúng tôi chịu được. Nhưng giờ thì chúng lại có phát kiến mới. Chúng để lại một nhóm tuần tra trong làng – ba hay bốn tên cướp gì đó mà chúng tôi phải chăm sóc. Có thể chúng sẽ lưu lại suốt mùa đông. Chúng nói rằng sẽ đợi đứa bé gái đang tìm kiếm thò mặt ra khỏi nơi ẩn nấp và xuất hiện trong một ngôi làng nào đó. Và đánh bẫy con bé.”
“Và chúng cũng ở trong làng ông?” Người nông dân cau có và nghiến răng.
“Không có tên nào trong làng chúng tôi, chúng tôi gặp may. Nhưng có bốn tên đang ngồi ở Dun Dare cách chúng tôi nửa ngày đường. Chúng lượn lờ trong quán rượu. Chúng là lũ vô lại, ngài ẩn sĩ à, lũ vô lại tởm lợm. Chúng bắt đầu xàm xỡ phụ nữ trong làng, và khi đàn ông đứng lên ngăn cản thì bị sát hại không thương tiếc…”
“Chúng giết người trong làng sao?”
“Hai. Ông thị trưởng và một người nữa. Nói tôi xem, ngài ẩn sĩ, chẳng lẽ không có sự trừng phạt nào giáng xuống đầu bọn khốn khiếp đó sao! Một ủy viên hội đồng từ Dun Dare đã tới chỗ chúng tôi cùng vợ và con gái, nói rằng ông ấy sẽ ra ngoài tìm một witcher…họ thanh trừng đủ loại cặn bã. Ông ấy sẽ mời một witcher đến Dun Dare để lo liệu lũ côn đồ đó…”
“Witcher giết quái vật, không phải người.”
“Chúng là quái vật, ngài ẩn sĩ à, chúng không phải người nữa rồi, mà là lũ ma quỷ được gửi đến từ địa ngục. Một witcher là cần thiết, một witcher…Chà, đến lúc tôi lên đường rồi, ngài ẩn sĩ…Uh, trời lạnh quá! Tôi sẽ sớm phải cất con thuyền và lôi ra cái xe trượt thôi…và với lũ cặn bã ở Dun Dare, ngài ẩn sĩ à, một witcher là cần thiết.”
***
“Ông ta nói đúng,” Ciri rít lên qua hàm răng nghiến chặt. “Ông ta nói đúng. Cần một witcher…hoặc nữ witcher. Bốn tên, phải không? Ở Dun Dare? Và Dun Dare ở chỗ nào? Thượng nguồn? Tôi có thể tới đó qua đầm lầy không?”
“Thần linh ơi, Ciri,” Vysogota hoảng sợ. “Cô không thể nghiêm túc được…”
“Đừng thề thốt với thần linh nếu ông không tin vào họ. Và tôi biết là ông không tin.”
“Mặc kệ đức tin của ta đi. Ciri, cái ý tưởng điên rồ gì đang nảy nở trong đầu cô thế hả? Làm sao cô thậm chí…”
“Giờ thì đến lượt ông hãy mặc kệ đức tin của tôi đi, Vysogota. Tôi biết nghĩa vụ của mình là gì. Tôi là một witcher!”
“Cô là một con nhóc quái dị,” ông già vặc lại. “Cô là một đứa trẻ đã phải hứng chịu tổn thương tâm lý nặng nề. Một đứa trẻ ốm yếu, kích động và sắp sửa phát khùng. Và trên cả bị ám ảnh bởi ham muốn báo thù! Cô không hiểu sao?”
“Tôi hiểu còn rõ hơn ông!” Cô la lên. “Ông đâu biết những gì tôi đã phải trải qua! Ông đâu biết báo thù là thế nào, vì chưa một lần trong đời ông bị tổn thương thật sự!”
Cô chạy khỏi căn chòi. Một cơn gió lạnh xộc vào phòng qua cánh cửa bật mở. Sau một lúc ông nghe thấy tiếng ngựa hý và giẫm móng.
Giận dữ, ông lật tung chiếc đĩa trên bàn. Cứ mặc nó, ông nghĩ, cứ mặc nó đi mà xả giận. Ông không lo sợ cho cô bé, bởi cô đã từng nhiều lần cưỡi ngựa quanh khu đầm lầy và biết rõ những lối đi an toàn. Và kể cả nếu có bị lạc, cô có thể nới lỏng dây cương, Kelpie biết đường về nhà.
Sau một lúc, khi màn đêm buông xuống, ông ra ngoài và treo một cây đèn lồng lên. Ông đứng cạnh hàng rào, căng tai để nghe ngóng âm thanh vó ngựa hay tiếng quẫy nước. Tuy nhiên cơn gió thổi qua đám sậy dìm đi mọi tiếng động khác. Cây đèn lồng rung lắc trên cây cột mất một lúc rồi tắt ngấm.
Vào khoảnh khắc đó, ông nghe thấy. Từ xa. Không phải hướng mà Ciri đã đi, mà là ngược lại. Từ đầm lầy.
Một tiếng khóc hoang dại, kéo dài. Một tiếng tru. Và một khoảnh khắc im lặng. Và lại lần nữa.
Một Banshee.
Một linh hồn elves. Sứ giả của cái chết.
Vysogota rùng mình vì lạnh và khiếp đảm. Ông nhanh chóng quay lại căn chòi, lầm bầm để không ai nghe thấy, bởi vì không ai nên nghe thấy.
Trước khi ông kịp thắp lại ngọn đèn lồng, Kelpie đã hiện ra từ trong màn sương.
“Quay vào căn chòi thôi,” Ciri khẽ nói. “Và đừng ra ngoài. Đêm nay sẽ là một đêm kinh khủng.”
***
Họ lại cãi nhau vào bữa tối.
“Có vẻ như cô rất am hiểu về xung đột giữa thiện và ác!”
“Bởi vì tôi biết! Và không chỉ là từ những cuốn sách của một trường đại học!”
“Không, dĩ nhiên rồi. Cô biết tất cả từ trải nghiệm cá nhân. Từ thực tiễn. Cô đã tích lũy được một vốn kiến thức giàu có trong 16 năm trời dài đằng đẵng của mình.”
“Tôi đã tích lũy được nhiều.”
“Xin chúc mừng, bạn đồng nghiệp.”
“Ông chế nhạo tôi,” cô bé hít vào một hơi thật sâu. “Nhưng bản thân ông cũng chẳng biết cái thế giới này tồi tệ đến nhường nào, đám khoa học gia lú lẫn các người, những nhà nghiên cứu lý thuyết với đống sách vở, với hàng thế kỷ kinh nghiệm đọc khái luận đạo đức, uyên thâm tới nỗi các người còn không có thời gian để thò đầu ra ngoài cửa sổ và nhìn xem thế giới bên ngoài thật sự thế nào. Các ông, những nhà triết lý ủng hộ những triết lý do chính mình tạo ra để ăn lương đại học. Một con chó què chân cũng sẽ chẳng trả cho các ông xu nào để nghe về sự thật xấu xí của cái thế giới này, vậy nên các ông phải phát minh ra đạo đức và quy tắc – một bài học đẹp đẽ. Nhưng nhảm nhí và dối trá!”
“Không có gì là nhảm nhí và dối trá, oắt con, hơn là một lời nhận xét hấp tấp và thiếu cân nhắc!”
“Các ông đã không thể tìm ra phương thuốc cho cái ác! Và tôi, một con oắt witcher, đã tìm được! Một liều thuốc đáng tin cậy!”
Ông không trả lời, nhưng khuôn mặt để lộ quan điểm của mình, bởi vì Ciri đột nhiên bật dậy khỏi bàn.
“Ông nghĩ tôi đang lảm nhảm vô nghĩa chứ gì? Rằng tôi nói chỉ vì thích nói thôi có phải không?”
“Ta nghĩ,” ông khẽ đáp lời, “rằng cô nói trong cơn giận. Ta nghĩ rằng cô đang lên kế hoạch báo thù trong cơn giận. Do vậy, ta khuyên cô nên bình tĩnh lại.”
“Tôi đang bình tĩnh! Và báo thù? Hãy lý giải cho tôi tại sao không đi? Tại sao tôi nên từ bỏ việc trả thù? Dựa vào cái gì? Nguyên tắc đạo đức? Thế còn trật tự thế giới thì sao, quy luật rằng cái ác phải bị trừng phạt? Đối với ông, một nhà đạo đức học và triết gia, hành động trả thù là xấu, là hèn nhát, vô đạo đức và bất hợp pháp. Nhưng tôi hỏi ông câu này: vậy sự trừng phạt cho cái ác sẽ đến từ đâu? Ai sở hữu nó và ai ban phát nó? Các vị thần mà ông không tin? Đấng sáng tạo tối cao mà ông đã quyết định thay thế cho các vị thần? Hay có lẽ là luật pháp? Có lẽ là công lý Nilfgaard, với quan tòa và bồi thẩm đoàn? Lão già ngây thơ!”
“Vậy là ăn miếng trả miếng, mạng đổi mạng, máu đổi máu. Và vì máu đó, nhiều máu hơn nữa sẽ đổ, một biển máu. Cô muốn thế giới ngập trong máu à? Nhãi con ngây thơ. Để cô có thể chiến đấu chống lại cái ác, hả witcher?”
“Phải. Chính xác là như thế! Bởi vì tôi biết cái ác sợ điều gì. Không phải mớ đạo đức của ông, Vysogota, không phải những bài giảng và khái luận về cuộc sống thanh cao của ông. Cái ác khiếp sợ đau đớn, tàn tật, thống khổ, và cuối cùng là cái chết! Con chó tru lên khi bị đánh đập! Quằn quại trên mặt đất và gầm rú, nhìn dòng máu chảy ra từ động mạch, nhìn khúc xương lòi ra khỏi chi bị cắt cụt, nhìn lòng phèo xổ ra khỏi vết rạch trên bụng, cảm nhận cái lạnh sắp sửa bao trùm lấy người. Và chỉ lúc đó cái ác mới bắt đầu van xin, “Hãy rủ lòng thương! Tôi hối hận vì tội lỗi của mình! Tôi sẽ làm người lương thiện, tôi thề! Chỉ cần hãy cứu tôi, đừng để tôi chết!” Phải, ẩn sĩ à. Đó là cách để chiến đấu với cái ác! Khi cái ác muốn hãm hại ông, muốn ông đau đớn – hãy chặn chúng lại, tốt nhất là đừng để cái ác đoán trước được. Nhưng nếu không thể ngăn chặn, nếu ông bị cái ác làm đau, thì hãy trả thù chúng! Thời điểm tốt nhất là khi chúng đã quên, khi chúng tưởng rằng mình an toàn. Lúc đó hãy trả lại chúng gấp đôi. Gấp ba. Ăn miếng trả miếng? Không! Toàn bộ miếng trả lại một miếng! Trả đủ lại cho cái ác! Bắt chúng gào thét đau đớn, tru tréo cho đến khi mắt lồi khỏi tròng. Và rồi, ông có thể nhìn xuống chân và dõng dạc tuyên bố rằng cái thứ nằm dưới đó sẽ không thể hãm hại ai được nữa. Làm sao một kẻ có thể gây nguy hiểm cho người khác nếu hắn bị móc mắt? Làm sao một kẻ có thể làm đau người khác nếu hắn không còn tay? Hắn chỉ có thể nằm chờ chảy máu cho đến chết.”
“Và cô,” ông già nói, “đứng đó với thanh kiếm cầm trong tay, nhìn vào vũng máu đang lan rộng. Và cô dám kiêu ngạo nghĩ rằng mình đã giải được vấn đề đã tồn tại hàng thiên niên kỷ, trả lời được câu hỏi vĩnh cửu của các triết gia. Cô nghĩ rằng bản chất của cái ác sẽ thay đổi sao?”
“Chắc rồi,” cô nói cứng rắn. “Bởi vì cái thứ nằm dưới đất và sặc máu đó, không phải là cái ác. Có thể nó không phải cái thiện, nhưng nó cũng không còn là cái ác nữa!”
“Các học giả nói rằng tự nhiên thù ghét những khoảng trống,” Vysogota đáp lại. “Cái thứ nằm dưới đất và sặc máu, mà cô đã hạ gục bằng thanh kiếm của mình, nếu nó không phải cái ác thì là cái gì? Cô đã nghĩ đến chuyện đó bao giờ chưa?”
“Không. Tôi là một witcher. Tôi đã được dạy phải dùng thanh kiếm để chống lại cái ác. Luôn luôn. Và không cần suy nghĩ. Bởi khi ta bắt đầu nghĩ,” cô khẽ thêm vào, “việc giết chóc sẽ trở nên vô nghĩa. Và điều đó không được phép xảy ra.”
Ông lắc đầu, nhưng cô khoát tay và ngăn ông khỏi tranh cãi thêm.
“Đã tới lúc kết thúc câu truyện của tôi rồi, Vysogota. Tôi đã kể cho ông trong ba tuần, từ thu phân đến Saovine. Nhưng tôi vẫn chưa kể ông nghe hết mọi thứ. Trước khi tôi đi, ông nên biết chuyện gì đã xảy ra ở ngôi làng có tên Kỳ Lân…”
***
Cô bé kêu lên khi bị giật xuống từ yên ngựa. Bên hông vừa ăn đá hôm qua vẫn còn đau điếng. Hắn kéo xích cổ và lôi cô đến một tòa nhà.
Đang đứng cạnh cửa là vài người đàn ông vũ trang. Và một phụ nữ.
“Bonhart,” một người hơi lùn da ngăm đen, trong tay cầm một cây roi gai đồng lên tiếng. “Tôi phải thừa nhận là ông có tài làm người khác ngạc nhiên đấy.”
“Xin chào, Skellen.”
Người đàn ông tên Skellen lại gần trong khi nhìn thẳng vào mắt Ciri. Cô run rẩy dưới ánh mắt của ông ta.
“Thế nào?” Ông ta quay sang Bonhart. “Ông định sẽ giải thích hết một lượt hay từng tí từng tí một?”
“Tôi không thích lý giải cái gì trong sân hết, nơi mà ruồi có thể bay vào mồm. Ông có định mời tôi vào trong không?”
“Vào đi.”
Bonhart giật sợi xích cổ.
Trong căn nhà là một người đàn ông nữa, quần áo xộc xệch và nhợt nhạt, có lẽ là một đầu bếp, bởi vì hắn đang bận chùi sạch bột mỳ và kem ra khỏi người. Khi trông thấy Ciri, mắt hắn sáng lên. Hắn tiến lại.
Hắn không phải đầu bếp.
Cô nhận ra hắn, cô nhớ đôi mắt kinh khủng và vết bỏng trên gương mặt đó. Chính hắn cùng với lũ Sóc đã truy đuổi cô trên Thanedd, cô đã trốn thoát bằng cách nhảy khỏi cửa sổ và hắn ra lệnh cho lũ elves đuổi theo cô. Chúng gọi hắn là gì nhỉ? Rens?
“Chà, chà!” giọng hắn nghe hiểm độc, tay hắn dí vào ngực cô đau đớn. “Tiểu thư Ciri! Chúng ta chưa gặp lại lần nào kể từ Thanedd. Ta đã tìm cô trong một khoảng thời gian dài, rất dài rồi đấy. Và giờ thì cuối cùng cô đã ở đây!”
“Tôi không biết anh là ai, quý ngài lạ mặt,” Bonhart nói lạnh lùng. “Nhưng cái anh đang tìm thuộc về tôi, xin hãy giữ tay tránh xa khỏi con bé, nếu anh vẫn còn quý trọng ngón tay mình.”
“Tên tôi là Rience,” đôi mắt tên pháp sư sáng lên với vẻ khó chịu. “Hãy tự giúp mình và nhớ lấy cái tên đó đi, ngài thợ săn tiền thưởng. Và tôi là ai thì ông sẽ sớm biết. Ông cũng sẽ sớm biết đứa con gái thuộc về ai. Nhưng không nên cầm đèn chạy trước xe ngựa làm gì. Trong lúc này tôi chỉ muốn gửi lời chào cùng một lời hứa. Ông không phản đối gì việc đó chứ hả?”
“Anh cứ việc gửi bất kỳ cái gì anh muốn.” Rience lại gần Ciri, hắn nhìn vào mắt cô thật gần.
“Ả hộ vệ của cô, mụ phù thủy Yennefer,” hắn rít lên ác hiểm, “đã từng chạm trán ta một lần. Khi cô ta rơi vào bàn tay ta, ta, Rience, đã dạy cho cô ta biết đến đau đớn. Bằng đôi tay này, những ngón tay này. Và ta đã hứa với cô ta rằng nếu cô có rơi vào tay ta, công chúa, cô cũng sẽ được biết đến nỗi đau như vậy. Bằng đôi tay này, những ngón tay này…”
“Liều lĩnh đấy,” Bonhart khẽ nói. “Rất liều lĩnh, ngài Rience à, hay bất kỳ anh là ai đi chăng nữa, khi chọc giận cô gái của tôi và đe dọa nó. Con bé thù dai lắm, chuẩn bị mà nhớ lấy điều đó. Tôi nhắc lại, hãy giữ tay cùng tất cả bộ phận cơ thể tránh xa khỏi nó giùm.”
“Đủ rồi,” Skellen quát, mắt không rời khỏi Ciri. “Để mặc hắn đi, Bonhart. Còn ngươi, Rience, cũng bình tĩnh lại coi. Ta đã rủ lòng thương, nhưng cũng có thể suy xét lại và trói ngươi vào cái bàn. Cả hai người hãy ngồi xuống. Hãy cùng bàn luận như những con người văn minh. Có vẻ như chúng ta đều có cái mình muốn ở đây. Và mục tiêu của cuộc trò chuyện sẽ được canh gác cẩn thận. Anh Silifant!”
“Chăm sóc con bé kỹ càng đấy,” Bonhart đưa sợi xích cho Silifant. “Như thể chính mạng sống của anh vậy.”
***
Kenna đứng bên cạnh. Phải, cô ta muốn nhìn đứa con gái mà là tâm điểm của biết bao cuộc trò chuyện gần đây, nhưng cô ta cũng cảm thấy một sự lôi kéo kỳ lạ đối với đám đông đang vây quanh Harsheim và Silifant, những người đang dẫn tên tù nhân bí ẩn tới một cây cột đặt giữa sân.
Mọi người đều xô đẩy và nhìn chằm chằm, cố chạm hay cào cấu cô gái. Cô đi từng bước cứng nhắc, khập khiễng nhưng ngẩng cao đầu. Hắn đã đánh cô ấy, Kenna nghĩ. Nhưng không bẻ gẫy được cô ấy.
“Vậy ra đây là Falka.”
“Cô ta chỉ là một đứa trẻ, còn chưa hẳn trưởng thành!” “Một đứa trẻ? Cô ta là một tên cướp!”
“Và dường như đã đánh lại 6 người trong đấu trường ở Claremont…” “Và bao nhiêu trước đó…con quỷ cái…”
“Chó sói!”
“Nhìn tóc cô ta xem! Dòng máu thuần chủng xịn đó…và đang buộc ở túi hành lý của Bonhart kìa, một thanh kiếm đẹp làm sao…một tuyệt tác…”
“Để cô ta yên đi!” Dacre Silifant sủa. “Đừng chạm vào cô ta! Đừng xía mũi vào chuyện của người khác. Và cả cô ta nữa. Đừng tỏ ra miệt thị hay ghê tởm! Cảm thông chút đi. Để cô ta thở với chứ.”
“Nếu cô ta sắp chết,” Cyprian Fripp Trẻ nhe răng ra, “liệu chúng ta có thể giúp cô ta thấy thoải mái nốt phần đời còn lại không? Đem cô ta ra sau đống rơm và phang?”
“Dĩ nhiên rồi!” Cabernet Turent cười hềnh hệch. “Đó không phải là một ý tưởng tồi. Chúng ta sẽ đi hỏi Cú Nâu…”
“Tôi cấm,” Dacre cắt lời chúng. “Trong đầu các anh không thể nghĩ được cái gì khác hay sao, lũ con hoang! Tôi đã bảo để cô gái yên rồi. Andres, Stigward, đứng đó canh chừng. Đừng rời mắt khỏi cô ta. Và bất cứ ai dám lại gần thì quật cho một roi!”
“Mẹ nó!” Fripp chửi thề. “Không được thì thôi, chúng tôi đếch quan tâm. Thôi nào anh em, đi nướng một con lợn và làm bữa tiệc thôi. Lễ thu phân là đêm nay. Trong khi các quý tộc bàn luận thì chúng ta có thể ăn mừng.”
“Đi nào! Dede, lấy một thùng rượu đi. Làm một trận! Chúng tôi có thể không, ngài Silifant?
Ngài Harsheim? Hôm nay là một ngày lễ, và chúng tôi thì không thể rời khỏi đây đêm nay.”
“Thật là một ý tưởng hay!” Silifant nhăn mặt. “Tiệc tùng và bia rượu! Và ai sẽ ở đây để canh chừng cô gái và đợi lệnh từ ngài Stefan?”
“Tôi sẽ ở lại,” Neratin Ceka nói. “Và tôi,” Kenna cũng đáp.
Dacre Silifant nhìn họ cẩn thận. Cuối cùng chấp nhận bằng một cái vẫy tay. Fripp và những người khác gầm lên cảm ơn.
“Nhưng phải dè chừng lúc ăn uống đấy!” Ola Harsheim cảnh báo. “Đừng có giận dỗi vô cớ nếu gái làng không để các anh phang họ!”
“Ồ vâng! Cô có đi cùng chúng tôi không Chloe? Còn cô, Kenna? Cô không thay đổi ý định à?”
“Không, tôi sẽ ở đây.”
***
“Tôi bị cùm vào cây cột và bỏ lại, hai tay trói với nhau. Tôi bị canh gác bởi hai người của Skellen. Thêm hai kẻ khác đứng gần đó và dè chừng. Một người phụ nữ cao ráo và rất đẹp. Và một người đàn ông. Một người đàn ông có diện mạo và tác phong khá nữ tính. Thật kỳ lạ.”
Con mèo ngồi giữa phòng ngáp một hơi dài, chán chường vì con chuột nó đang tra tấn không còn thấy vui nữa. Vysogota im lặng.
“Bonhart, Rience và Skellen, hay Cú Nâu, đang ngồi nói chuyện trong nhà. Tôi không biết là về cái gì. Tôi phải trông đợi điều tồi tệ nhất sẽ xảy đến, nhưng chịu không đoán nổi. Một đấu trường nữa? Hay chúng đơn giản sẽ giết tôi? Cứ để chúng làm vậy, tôi đã nghĩ thế, cứ để mọi chuyện được kết thúc.”
Vysogota im lặng.
***
Bonhart thở dài.
“Đừng nhìn vào đôi mắt này, Skellen.” Hắn nhắc lại. “Tôi chỉ muốn kiếm chút tiền thôi. Tôi nghĩ đã đến lúc mình cần giải nghệ rồi, ngồi dưới hiên nhà ngắm bồ câu. Với mỗi tên Rats giết được, tôi sẽ có 100 floren. Điều đó khiến tôi tò mò. Đứa con gái này thực sự đáng giá bao nhiêu, tôi đã nghĩ vậy. Tôi đoán rằng nếu không giao nó cho ông, nó sẽ có lợi hơn cho tôi về lâu về dài. Nguyên tắc cũ mèm của một giao kèo – món hàng quý báu đến vậy sẽ lên giá không ngừng. Một người có thể mặc cả…”
Cú Nâu nhăn mũi như thể có thứ bốc mùi vậy.
“Sự thành thật của ông còn hơn cả mức chấp nhận được, Bonhart. Nhưng vào ý chính đi. Ông đã bỏ chạy cùng đứa con gái qua khắp Ebbing, và giờ thì đột nhiên xuất hiện ở đây và giải thích mọi thứ bằng quy luật kinh tế thị trường. Nói xem chuyện gì đã xảy ra.”
“Có gì để mà nói kia chứ,” Rience mỉm cười châm chọc. “Ngài Bonhart đã đơn giản biết được đứa con gái thực sự là ai. Và cô ta đáng giá thế nào.”
Skellen không thèm nhìn. Ông ta nhìn Bonhart, nhìn vào đôi mắt cá chết vô cảm của hắn. “Và đứa con gái quý báu này,” ông ta dài giọng, “phần thưởng vô giá sẽ đảm bảo khoản
nghỉ hưu của ông này, đã bị đẩy vào đấu trường ở Claremont và buộc phải đấu tới chết? Liều cái mạng của nó, dù cho rõ ràng là nếu nó sống thì đáng giá hơn nhiều. Sao lại như vậy, Bonhart? Bởi vì có gì đó sai ở đây.”
“Nếu con bé bị giết trong đấu trường,” Bonhart không hạ mắt, “thì có nghĩa nó chẳng đáng giá gì hết.”
“Tôi hiểu.” Cú Nâu nhăn mặt. “Nhưng thay vì dẫn nó tới một đấu trường khác, ông lại đem nó tới cho tôi. Tôi có thể hỏi vì sao không?”
“Lại lần nữa,” Rience cau mày, “Ông ta đã đoán được nó là ai.”
“Anh thông minh lắm, ngài Rience.” Bonhart duỗi tay kêu răng rắc. “Anh đoán đúng rồi đấy. Tôi đã phát hiện ra con bé được huấn luyện bởi các witcher ở Kaer Morhen, nhưng vẫn còn một câu hỏi khác. Ở Geso, trong một cuộc tập kích một nữ quý tộc, con bé đã bảo với một nam tước phu nhân rằng tước hiệu của cô ta chỉ đáng làm giẻ rách và cô ta nên quỳ trước nó. Thế là tôi nghĩ Falka ắt phải là một nữ bá tước là chí ít. Thật tò mò. Đầu tiên là một witcher. Có nhiều witcher còn sống lắm không? Rồi lại tới băng Rats. Và ngài thanh tra trưởng hoàng gia thì đang truy đuổi cô ta từ Korath đến Ebbing để giết bằng được. Và hơn cả…một quý tộc, sinh ra trong dòng dõi cao quý. Ha, tôi nghĩ mình phải biết được đứa trẻ này là ai.”
Hắn tạm ngừng.
“Thoạt tiên,” hắn chùi ria mép bằng tay áo, “nó không muốn nói chuyện. Tôi đã tra hỏi. Tôi quật lên tay và chân nó bằng một cây roi. Tôi không muốn làm nó tàn tật…nhưng may thay chúng tôi gặp được một nha sĩ. Với dụng cụ nhổ răng. Tôi trói nó vào một cái ghế…”
Skellen nuốt ực một tiếng. Rience mỉm cười tàn nhẫn. Bonhart nhìn xuống tay áo.
“Con bé kể cho tôi mọi thứ…ngay khi trông thấy đống dụng cụ và dao rựa. Đột nhiên nó trở nên lắm mồm. Hóa ra nó là…”
“Công chúa của Cintra,” Rience liếc nhìn Cú Nâu. “Người thừa kế ngai vàng. Và cô dâu của Hoàng đế Emhyr.”
“Ngài Skellen đã không nói trước với tôi,” tên thợ săn tiền thưởng vặn vẹo môi. “Ông ta bảo tôi cứ giết con bé đi, ông ta đã nói rõ vài lần rồi. Giết ngay tại chỗ và không thương xót. Nhưng gì thế này, ngài Skellen? Giết nữ hoàng sao? Vợ tương lai của Hoàng đế kính yêu của ông? Mà theo như lời đồn thì ngay sau đám cưới sẽ là một đợt ân xá khổng lồ?”
Trong khi nói, ánh mắt Bonhart như muốn xuyên thủng Skellen. Nhưng ngài thanh tra trưởng hoàng gia không một lần quay đi.
“Điều này có nghĩa gì với tôi đây nhỉ?” Bonhart mỉa mai và ngay lập tức tự trả lời. “Mẹ nó! Thế là, với sự tiếc nuối, tôi đành phải từ bỏ kế hoạch dành cho cô công chúa và witcher nhỏ này. Tôi đã mang toàn bộ đống rắc rối này về đây, ngài Skellen. Để bàn luận và cùng đi đến thống nhất…Bởi vì đống cứt này có vẻ như hơi to so với chỉ mình Bonhart…”
“Một quyết định sáng suốt,” thứ gì đó lên tiếng từ dưới cánh tay Rience. “Một quyết định rất sáng suốt, ngài Bonhart. Thứ mà các ông đã tóm được là quá lớn so với cả hai người. May thay, hai người vẫn có tôi.”
“Cái gì thế?” Skellen bật dậy khỏi ghế. “Cái quái gì thế?”
“Chủ nhân của tôi, pháp sư Vilgefortz,” Rience lôi ra từ dưới cánh tay một cái hộp bạc óng ánh. “Chính xác hơn thì là giọng nói của chủ nhân tôi. Tới từ dụng cụ ma thuật có tên Xenophon này.”
“Xin chào tất cả những người có mặt,” cái hộp lên tiếng. “Thật đáng tiếc là tôi chỉ có thể nghe được các vị, nhưng vài vấn đề khẩn cấp đã ngăn cản tôi chiếu ảo ảnh hay dịch chuyển tới đó.”
“Khỉ thật, đây là những gì chúng ta cần cơ đấy,” Cú Nâu nguyền rủa. “Nhưng lẽ ra tôi nên đoán được rằng Rience quá ngu để tự hành động một mình mới phải. Lẽ ra tôi nên biết rằng anh đang ẩn nấp trong bóng tối, Vilgefortz. Như một con nhện béo phị, nằm chờ đến lúc lưới rung.”
“Thật là một phép so sánh xúc phạm hết sức.” Skellen khịt mũi.
“Và đừng cố lừa chúng tôi, Vilgefortz. Rience đang dùng cái hộp này không phải vì anh đang bận, mà bởi vì anh sợ đội quân pháp sư hùng mạnh đó, các đồng nghiệp cũ của anh từ Giáo Phái, những người đang dò tìm cả thế giới để phát hiện ra bất kỳ dấu hiệu ma thuật nào có thuật toán của anh. Nếu anh cố dịch chuyển, họ sẽ tìm ra anh trong nháy mắt.”
“Thật là một vốn kiến thức uyên thâm.”
“Chúng ta vẫn chưa được giới thiệu với nhau,” Bonhart cúi chào cái hộp có phần cường điệu. “Nhưng nếu tôi đúng, quý ngài pháp sư, thì anh Rience đây đã hứa sẽ tra tấn cô công chúa nhỏ. Tôi đã nhầm sao? Thề trên linh hồn mình, tôi cứ liên tục phải đảm bảo rằng đứa con gái này quan trọng đến nhường nào. Có vẻ như tất cả mọi người đều quan tâm đến nó.”
“Chúng ta vẫn chưa được giới thiệu với nhau,” Vilgefortz nói từ cái hộp. “Nhưng tôi cũng biết ông, ngài Bonhart. Và đứa con gái quả thực rất quan trọng. Đây là Sư Tử Con của Cintra, Dòng Máu Cổ Xưa. Và dựa theo lời tiên tri của Ithlinne, hậu duệ của con bé sẽ thống trị thế giới này.”
“Đó là lý do anh cần nó sao?”
“Tôi chỉ cần nhau thai thôi. Một khi tôi đã trích xuất được từ nó, các ông có thể lấy phần còn lại. Tôi có đang nghe thấy tiếng khịt mũi không đấy? Còn cả thở dài bực bội và ghê tởm nữa sao? Từ ai vậy? Từ Bonhart mà tra tấn đứa trẻ về thể xác và tinh thần mỗi ngày? Hay từ Stefan Skellen, người được ra lệnh giết nó bởi những kẻ phản bội và mưu mô? Hả?”
***
Mình đã nghe lén họ, Kenna nhớ lại, nằm trên giường tay gối sau đầu. Mình đứng ở một góc và nghe ngóng. Và tóc tai mình dựng đứng cả lên. Và đột nhiên mình hiểu ra cái mớ hỗn độn này khủng khiếp thế nào.
***
“Phải, phải,” giọng nói cất lên từ cái Xenophon, “ông đã phản bội Hoàng đế của mình, Skellen. Không ngần ngại và ngay cơ hội sớm nhất có thể.”
Cú Nâu khịt mũi tỏ vẻ khinh miệt.
“Lời buộc tội đến từ miệng của một tên phản đồ như anh, Vilgefortz, nghe mới trang trọng làm sao. Tôi sẽ rất lấy làm vinh dự. Nếu không phải vì nghe nó như một trò đùa rẻ tiền.”
“Tôi không buộc tội ông, Skellen. Tôi chỉ đem cái sự ngây thơ và khả năng làm phản đồ của ông ra làm trò cười thôi. Bởi vì lý do để ông phản bội lại chủ nhân của mình là gì? Vì Ardal aep Dahy và de Wett, cái tôi mong manh bị làm tổn thương, cảm thấy xúc phạm rằng con gái của họ bị đẩy ra bởi Hoàng đế, khi ông ta lên kế hoạch kết hôn với người Cintra. Trong cái giờ khắc ngây thơ đó, họ những tưởng rằng từ gia đình mình sẽ nổi lên một triều đại mới, rằng tầm quan trọng của họ sẽ thậm chí còn vượt qua cả Hoàng đế. Nhưng bằng một đòn duy nhất, Emhyr đã tước bỏ hy vọng này của họ, và do vậy họ quyết định sẽ thay đổi lịch sử. Họ vẫn chưa chuẩn bị cho một cuộc đảo chính vũ trang, nhưng vẫn có thể giết kẻ dám vượt mặt con gái mình. Họ không muốn làm vấy bẩn đôi tay quý tộc đó, nên đã tìm được một tên côn đồ cho thuê, Stefan Skellen, kẻ lúc nào cũng luôn đầy tham vọng. Thế nào, Skellen? Ông có muốn nói gì không?”
“Để làm gì?” Cú Nâu kêu lên. “Và nói cho ai? Anh đã biết hết mọi chuyện rồi, như thường lệ, hỡi pháp sư quyền năng! Rience như mọi khi chẳng biết cái chó gì cả! Và Bonhart thì không quan tâm…”
“Và ông, như tôi đã chỉ ra, không có gì để khoe mẽ hết. Hai ngài công tước đã mua chuộc ông bằng những lời hứa hẹn, nhưng ông đủ thông minh để biết rằng nếu không có đứa con gái, ông chẳng có gì cả. Họ cần ông làm công cụ để trừ khử người Cintra, và một khi ông đã hoàn thành xong công việc bẩn thỉu đó, họ sẽ trừ khử ông bởi vì ông chỉ là một kẻ mới nổi thấp hèn. Họ đã hứa với ông và Vattier de Rideaux chức vụ mới trong đế chế sao? Thậm chí ngay cả bản thân ông cũng chẳng tin điều đó, Skellen. Vattier thì cần thiết hơn cho cuộc đảo chính, nhưng Sở Mật Vụ sẽ vẫn luôn là Sở Mật Vụ. Họ chỉ muốn giết người bằng bàn tay của ông thôi, còn Vattier họ cần để kiểm soát. Vả lại, Vattier là một tử tước trong khi ông chả là cái gì hết.”
“Chắc chắn rồi,” Cú Nâu nói. “Tôi quá thông minh để nhận ra điều đó. Vậy giờ sao đây, tôi phải phản bội Ardal aep Dahy và gia nhập cùng anh chăng, Vilgefortz? Đó có phải là điều anh muốn không? Nhưng tôi không phải một cây cột chỉ gió! Tôi ủng hộ cuộc cách mạng không phải vì cơ hội mà vì niềm tin. Cần thiết phải chấm dứt sự cai trị của những tên bạo chúa và thiết lập một nền quân chủ lập hiến. Và sau đó là dân chủ…”
“Cái gì?”
“Một nhà nước của nhân dân. Một thể chế nơi người dân cai trị. Những người công dân bình thường tới từ đủ mọi tầng lớp, sẽ lựa chọn ra những cá nhân đại diện xuất sắc nhất từ bầu cử công bằng…”
Rience phá lên cười. Bonhart hùa theo hắn. Một tiếng cười ấm áp, có phần ghê tai tới từ tên pháp sư Vilgefortz thông qua cái hộp Xenophon. Cả ba cười đến chảy nước mắt.
“Thôi nào,” Bonhart cắt ngang cuộc vui. “Chúng ta không tụ tập ở đây để tiệc tùng, mà bàn chuyện công việc. Đứa con gái ở thời điểm hiện tại không thuộc về các công dân tới từ đủ mọi tầng lớp, mà là tôi. Nhưng tôi sẵn lòng bán nó. Anh chào mời cái gì, quý ngài pháp sư?”
“Ông có hứng thú với quyền lực cai trị thế giới không?” “Không.”
“Do vậy, tôi sẽ để ông có mặt tại thời điểm mà tôi làm điều cần phải làm với đứa con gái.” Vilgefortz nói chậm rãi. “Tôi biết việc này sẽ khiến ông hài lòng hơn cả.”
Đôi mắt Bonhart rực lên một ngọn lửa trắng. Nhưng vẫn giữ bình tĩnh. “Và chi tiết hơn?”
“Chi tiết hơn, tôi sẵn sàng trả ông gấp 20 lần. 2000 floren. Cân nhắc đi, Bonhart, nó là một bao tiền mà ông cần đến một con lừa để vác. Khoản đó sẽ là đủ cho lương hưu, mái hiên, chim bồ câu và thậm chí cả vodka và gái điếm nếu ông biết chi tiêu hợp lý.”
“Được rồi, ngài pháp sư,” tên thợ săn tiền thưởng mỉm cười. “Vodka và gái điếm chắc chắn đã chạm đến trái tim tôi. Hãy lập một thỏa thuận đi. Tuy nhiên lời mời đầu tiên của anh cũng có phần trong này đấy. Đúng thật là tôi muốn nhìn thấy nó chết trong đấu trường hơn, nhưng công việc dao kéo của anh cũng khiến tôi khá tò mò. Hãy coi nó như phần thưởng đi.”
“Được.”
“Nhanh vậy.” Cú Nâu nói kháy. “Quả thực, Vilgefortz, anh đã nhanh chóng thiết lập được một mối quan hệ làm ăn với Bonhart đấy. Một mối quan hệ societas leonina. Nhưng anh có quên gì không? Căn phòng họp nơi anh đang ngồi, và người Cintra đang được canh gác bằng lính vũ trang. Lính của tôi.”
“Ngài thanh tra Skellen đáng mến của tôi,” giọng Vilgefortz vang lên từ cái hộp. “Ông xúc phạm tôi khi nghĩ rằng tôi muốn hại ông bằng cuộc trao đổi này. Trái lại là đằng khác. Tôi sẽ cực kỳ hào phóng. Tôi không thể đảm bảo chế độ dân chủ của ông. Nhưng tôi có thể hứa hẹn hỗ trợ tài chính, số liệu và thông tin mà sẽ giúp ông khỏi phải làm công cụ cho kẻ khác mà tiến thẳng đến vị trí đối tác luôn. Tất cả bọn họ đều sẽ phải dè chừng ông, công tước Joachim de Wett, công tước Ardal aep Dahy, bá tước Broinne, bá tước Darvi và những quý tộc mưu phản khác. Thế nếu nó là societas leonina thì sao? Phải, chiến lợi phẩm là Cirilla, và tôi sẽ lấy đi phần xứng đáng thuộc về mình. Điều này có gây hại đến ông không? Sau cùng thì ông cũng được lợi không hề nhỏ. Nếu giao người Cintra cho tôi, ông sẽ có vị trí của Vattier de Rideaux trong túi áo. Và với tư cách người đứng đầu cơ quan tình báo, Stefan Skellen, ông có thể thiết lập bao nhiêu thể chế tùy thích, bao gồm cả dân chủ và bầu cử công bằng. Ông thấy đấy, đổi lại đứa con gái gầy gò, tôi sẽ giúp ông hoàn thành tham vọng cả đời. Ông thấy chưa?”
“Chưa,” Cú Nâu lắc đầu, “Tôi chỉ nghe được thôi.” “Rience.”
“Vâng, thưa chủ nhân?”
“Hãy cho ngài thanh tra một chút thông tin của chúng ta. Hãy nói với ông ấy những gì ngươi biết về Vattier.”
“Trong đơn vị của ông,” Rience nói, “có một gián điệp.” “Cái gì?”
“Ông nghe rồi đấy. Vattier de Rideaux có nội gián ở đây. Hắn biết mọi thứ ông làm. Lý do tại sao và ông làm vì ai. Vattier có một đặc vụ ở đây.”
***
Anh ta lại gần thật chậm. Cô ta gần như không nghe được. “Kenna.”
“Neratin.”
“Cô đã đọc suy nghĩ của tôi. Trong căn phòng họp đó. Cô biết tôi đã nghĩ gì. Vậy nên cô biết tôi là ai.”
“Nghe này, Neratin…”
“Không. Cô hãy nghe đi, Joanna Selborne. Stefan Skellen đã phản bội lại đất nước và hoàng đế của mình. Ông ta đã ngấm ngầm âm mưu tạo phản. Những kẻ đi theo ông ta rồi sẽ lên giá treo cổ hết thôi. Hoặc bị phanh thây bằng ngựa kéo giữa quảng trường Thiên Niên Kỷ.”
“Tôi không biết gì cả, Neratin. Tôi chỉ làm theo lệnh…anh muốn gì từ tôi? Tôi phục vụ ngài thanh tra…còn anh phục vụ ai?”
“Đế chế. Lãnh chúa de Rideaux.” “Anh muốn gì từ tôi?”
“Hãy tỏ ra thông minh.”
“Đi đi. Tôi sẽ không phản bội anh, tôi sẽ không nói gì cả…nhưng đi đi, làm ơn. Tôi không thể, Neratin. Tôi chỉ là một người phụ nữ bình thường. Tôi không hiểu những âm mưu này…”
***
Mình phải làm gì đây? Skellen đã gọi mình là sĩ quan Selborne. Nhưng mình phụng sự ai?
Ông ta? Hoàng đế? Đế chế?
Làm sao mình quyết định được?
Kenna dựa lưng vào bức tường của căn chòi và gầm gừ đe dọa, đuổi lũ trẻ con đang túm tụm xung quanh Falka.
Một mớ hỗn độn đẹp đây. Mình có thể cảm thấy sợi thòng lọng. Ngửi thấy mùi phân ngựa trên quảng trường Thiên Niên Kỷ. Mình không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng mình nhất định phải nhìn vào tâm trí cô ta một lần.
Để biết cô ta là ai. Để hiểu.
***
“Cô ta lại gần hơn,” Ciri nói, vuốt ve con mèo. “Cô ta cao ráo, tóc tai gọn gàng, và rất khác so với những kẻ còn lại…Và thậm chí còn đẹp theo một cách nào đó. Từ cô ta toát lên vẻ đạo mạo. Hai gã canh chừng tôi, hai tên đần đang ngồi chửi bới, im bặt khi cô ta lại gần.”
Vysogota cũng im lặng.
“Thế rồi,” Ciri tiếp tục, “cô ta cúi xuống và nhìn vào mắt tôi. Ngay khoảnh khắc đó tôi nhận thấy một điều…một điều rất lạ…như có thứ đánh vào sau gáy mình. Mắt tôi nổ đom đóm. Trong một giây mọi vật dường như rõ nét ngay trước mắt…thứ gì đó mò vào đầu tôi, ghê tởm, bầy nhầy,…tôi biết nó là cái gì. Yennefer đã từng dạy cho tôi về nó ở đền thờ…Nhưng tôi không muốn người phụ nữ này…thế nên tôi đẩy lại cái thứ đang muốn thọc vào, đẩy và đẩy, với toàn bộ sức lực của mình. Người phụ nữ cao ráo cúi gập người và lảo đảo như thể bị ăn đấm và lùi lại hai bước…Máu bắt đầu chảy từ mũi cô ta. Từ cả hai lỗ mũi.”
Vysogota im lặng.
“Và đột nhiên,” Ciri ngẩng đầu dậy, “Tôi nhận ra chuyện gì vừa mới diễn ra. Tôi chợt cảm nhận được Thần lực trong người. Tôi đã đánh mất nó trong sa mạc Korath, chối bỏ nó. Về sau tôi đã không thể hút được nó, không thể dùng được nó. Và cô ta, người phụ nữ này, đã cho tôi sức mạnh, đã đặt thanh kiếm vào bàn tay tôi. Đây là cơ hội của tôi.”
***
Kenna lảo đảo và nặng nề ngồi xuống đống cát, lắc đầu quầy quậy và mò mẫm xung quanh như thể say rượu. Máu chảy từ mũi dây hết lên môi và cằm cô ta.
“Cái quái…” Andres Vierny bật dậy, nhưng bất chợt ôm đầu bằng cả hai tay, há mồm, và từ đôi môi thoát ra một tiếng hét. Với đôi mắt hoang dại hắn quay sang Stigward. Mũi và tai của gã hải tặc cũng đang chảy máu và mắt hắn đục ngầu. Andres khuỵu gối và nhìn Neratin Ceka, người đang đứng bên cạnh và quan sát một cách bình thản.
“Nera…tin…cứu…”
Ceka không di chuyển. Anh ta nhìn cô gái. Cô nhìn lại và anh ta giật lùi.
“Không cần,” anh ta nhanh chóng giải thích. “Tôi ở phe cô. Tôi muốn giúp. Dừng lại, tôi sẽ cắt dây trói…đây là một con dao, mở khóa xích cổ đi. Tôi sẽ đi lấy ngựa.”
“Ceka…” Andres ậm ực. “Quân phản bội…”
Cô gái lại nhìn vào mắt hắn, và Andres đổ xuống bất động. Stigward cuộn người lại một chỗ. Kenna vẫn chưa đứng lên được, từng giọt máu đặc sánh chảy từ mũi xuống ngực và bụng cô ta.
“Báo động!” Chloe Stitz la lên, đột ngột xuất hiện từ sau tòa nhà. “Báo động! Silifant!
Skellen! Tù nhân đang bỏ trốn!”
Ciri đã ở trên lưng ngựa rồi. Thanh kiếm nằm trong tay cô. “Đi nào! Kelpie!”
“Báo động!”
Kenna nắm chặt cát trong lòng bàn tay. Cô ta không thể đứng lên. Và đôi chân cứng như gỗ cũng chẳng buồn vâng lời. Một nhà ngoại cảm, cô ta nghĩ, mình đã chạm trán một siêu ngoại cảm. Cô gái này mạnh hơn mình gấp 10 lần…may mắn là mình đã không bị giết…làm sao mình vẫn còn tỉnh táo được nhỉ?
Từ những ngôi nhà xung quanh ùa ra một nhóm dẫn đầu bởi Ola Harsheim, Bert Brigden và Til Echrade, và cũng đang chạy tới là Dacre Silifant và Boreas Mun. Ciri quay đầu và phi nước đại về phía dòng sông. Nhưng từ hướng đó cũng đang xuất hiện nhiều người vũ trang.
Skellen và Bonhart xông ra khỏi tòa nhà hội đồng. Bonhart cầm một thanh kiếm tuốt vỏ. Neratin Ceka hét, phi ngựa đến và hất ngã Skellen. Từ trên yên anh ta lao mình thẳng vào Bonhart và dí hắn xuống đất. Rience hiện ra ở ngưỡng cửa và đứng nhìn như một thằng đần.
“Bắt nó!” Skellen hét trong lúc chồm dậy. “Bắt nó hoặc giết nó!” “Bắt sống!” Rience rú lên. “Phải bắt sống!”
Kenna dõi theo cô gái đang chạy dọc hàng rào cạnh bờ sông và chuyển hướng sang phía cổng. Cô ta trông thấy Cabernet Turent lao ra chắn đường, trông thấy ánh sáng từ thanh kiếm và dòng máu đỏ bắn ra từ cổ Turent. Dede Vargas và Fripp Trẻ cũng trông thấy. Chúng quyết định không ngáng đường và rút lui vào giữa những ngôi nhà.
Bonhart nhảy lên, đập cán kiếm vào đầu Neratin Ceka và chém một đường ngang ngực anh ta. Hắn ngay lập tức đuổi theo Ciri. Neratin đang chảy máu và bị thương vẫn xoay sở túm chân hắn được, chỉ để bị thanh kiếm của Bonhart đâm dính xuống đất. Tuy nhiên, vài giây ngắn ngủi đó là quá đủ.
Ciri thúc ngựa chạy qua Silifant và Mun. Skellen cúi gập người như chó sói, xông ra từ bên trái, tay vẫy qua không khí. Kenna trông thấy thứ gì đó sáng loáng vụt qua, rồi thấy cô gái lảo đảo trên yên ngựa, và từ mặt túa ra một dòng máu đỏ. Trong một thoáng Ciri nghiêng ra sau gần đến mức nằm ngửa trên lưng ngựa, nhưng trước khi ngã, cô kịp ngồi thẳng dậy, giữ lấy yên và bám chặt cổ con ngựa. Con ngựa đen phi qua đám đông vũ trang và hướng thẳng đến cổng. Đằng sau cô gái là Mun, Silifant và Chloe Stitz đang cầm một cây nỏ.
“Chúng ta tóm được cô ta rồi!” Boreas Mun hét lên chiến thắng. “Cô ta không thoát được đâu, không con ngựa nào nhảy được tận hơn 2 mét!”
“Đừng bắn, Chloe!”
Chloe Stitz không nghe thấy mệnh lệnh. Cô ta đứng lại, nỏ gương lên má. Mọi người đều biết rằng Chloe không bao giờ bắn trượt.
“Ngươi chết chắc rồi!” Cô ta hét lớn. “Chết chắc rồi!”
Kenna trông thấy một người đàn ông thấp bé chạy tới, nhặt lên một cây nỏ và bắn vào lưng Chloe. Mũi tên đâm xuyên qua người cô ta, máu văng tung tóe. Chloe ngã xuống không một tiếng động.
Con ngựa đen phi về phía cánh cổng và ngửa đầu ra sau. Và nó nhảy. Cất cánh cực kỳ duyên dáng và bay qua cổng, chân trước xoãi ra và lượn như một dải nhung đen huyền ảo. Chân sau thậm chí còn không chạm phải thanh xà.
“Thần linh ơi!” Dacre Silifant thốt lên. “Một con ngựa tuyệt vời làm sao! Đáng giá phải bằng số vàng tương ứng với trọng lượng của nó!”
“Ai bắt được đứa con gái sẽ có con ngựa!” Skellen hô lên. “Lên ngựa đi! Lên ngựa và đuổi theo!”
Khi cánh cổng cuối cùng mở ra, những kẻ truy đuổi phi từ trong làng, một làn mây bụi bắn lên phía sau. Dẫn đầu cuộc đua là Bonhart và Boreas Mun.
Kenna đứng lên đầy khó nhọc. Cô ta lảo đảo và lại ngồi xuống. Đôi chân cảm giác râm ran như kim châm.
Cabernet Turent không cựa quậy, nằm giữa một vũng máu, tay chân dang rộng. Andres Vierny đang cố đứng dậy và Stigward vẫn còn bất tỉnh nhân sự.
Nằm sóng xoài trên cát, Chloe Stitz trông như một đứa trẻ.
Ola Harsheim và Bert Brigden đem gã đàn ông thấp bé đã giết Chloe đến trước Skellen. Cú Nâu thở dài. Và run rẩy vì giận dữ. Từ dải băng quấn chéo trước ngực ông ta lôi ra một ngôi sao kim loại khác, giống như cái mà ông ta đã dùng để ném vào mặt đứa con gái lúc trước.
“Xuống địa ngục đi, Skellen.” Người đàn ông gằn giọng. Kenna cuối cùng cũng nhớ được tên hắn. Mekesser. Jediah Mekesser, gã Trị An viên Gemmera. Cô ta đã gặp hắn ở Rocayne.
Cú Nâu cúi xuống, và vẫy tay một cái. Ngôi sao sáu cạnh rít qua không khí và cắm sâu vào mặt Mekesser, giữa mắt và mũi. Hắn thậm chí còn không hét, chỉ bắt đầu co giật trong vòng tay của Harsheim và Brigden. Hắn rùng mình một lúc lâu và hàm răng nhe ra nhìn ghê tởm đến nỗi tất cả mọi người đều quay đi. Ngoại trừ Cú Nâu.
“Lấy lại cái phi tiêu đó cho ta,” Skellen khoát tay ra lệnh sau khi cái xác cuối cùng nằm bất động trong cánh tay đang giữ hắn. “Và ném miếng thịt thối này vào đống phân, cùng với những kẻ như hắn. Không để lại dấu vết nào của lũ phản trắc đáng khinh này.”
Đột nhiên gió thét gào, và những đám mây tụ tập lại. Bầu trời bỗng trở nên đen kịt.
***
Lính gác đổi phiên trên tường thành. Hai chị em Scarra song ca ngáy. Kohout đái vào một cái xô rỗng.
Kenna kéo chăn lên tận cằm.
***
Họ đã không tìm được cô gái. Cô ta đã biến mất. Cô ta chỉ đơn giản là biến mất. Boreas Mun – thật ngạc nhiên – đã mất dấu con ngựa đen chỉ sau ba dặm. Đột ngột, không cảnh báo, bầu trời tối mịt, những ngọn cây bị gió đè gần như rạp xuống đất. Mưa trút như thác đổ, sấm sét gầm rú ở phía xa và ánh chớp chiếu sáng cả bầu trời.
Bonhart không bỏ cuộc. Họ quay về làng Kỳ Lân. Họ gào thét vào mặt nhau – Bonhart, Cú Nâu, Rience và một giọng nói bí hiểm thứ tư. Họ đặt cả biệt đội lên yên ngựa, những người duy nhất được ở lại là những ai không thể cưỡi ngựa được – như mình. Họ mang theo cả nông dân cầm đuốc, những người hiểu rõ địa hình khu vực xung quanh. Họ quay về vào lúc bình minh.
Họ quay về tay trắng. Đó là nếu không tính đến nỗi khiếp đảm trong mắt.
Những tin đồn, Kenna nhớ lại, chỉ bắt đầu vài ngày sau đó. Đầu tiên ai cũng sợ Cú Nâu và Bonhart. Họ tức giận đến nỗi tốt hơn hết là đừng có ló mặt ra. Thậm chí một lời bông đùa từ Bert Brigden cũng khiến ông ta nhận một roi từ Skellen. Nhưng rồi ông ta kể lại những gì đã xảy ra trong cuộc rượt đuổi. Con kỳ lân nhỏ bằng rơm chợt phồng lên bằng kích cỡ một con rồng và khiến lũ ngựa hốt hoảng, hất ngã hết các kỵ sĩ xuống đất. Không biết bằng phép màu nào mà họ không gãy cổ. Một đoàn kỵ sĩ ma quỷ diễu hành qua bầu trời, những bộ xương cưỡi trên lưng những con ngựa xương xẩu, và đi đầu là một vị vua kinh khủng ra lệnh cho đày tớ của mình xóa toàn bộ dấu chân con ngựa đen bằng những vạt áo choàng tả tơi. Một dàn hợp xướng cú muỗi cất lên một bài ca lạnh lẽo đến đông máu. Và họ nghe thấy tiếng kêu kinh hoàng của Banshee, sứ giả của cái chết…
Những cơn gió, mây mù, bụi cây trong bóng tối và những sự kiện bí ẩn cũng được kể lại bởi Boreas Mun, người đã tham gia cuộc rượt đuổi, với nỗi sợ trong mắt. Đó là toàn bộ câu chuyện. Và đàn cú muỗi? Ông ta thêm vào rằng đàn cú muỗi hét không ngừng.
Còn dấu vết, dấu chân ngựa đột nhiên biến mất, như thể con ngựa đã chắp cánh bay lên?
Gương mặt của Boreas Mun, một người truy dấu, người có thể tìm được dấu vết một con cá trong nước, đanh lại khi nghe câu hỏi này. Những cơn gió là nguyên nhân, những cơn gió đã thổi bay mọi dấu vết trên cát và lá. Không còn lời giải thích nào khác.
Có vài người thậm chí còn tin ông ấy, Kenna nhớ lại.
Có vài người thậm chí còn tin rằng tất cả đều chỉ là những hiện tượng thiên nhiên hoặc là ảo ảnh. Và mình thậm chí còn cười cùng họ.
Nhưng mình không cười nữa. Sau Dun Dare. Sau Dun Dare không còn ai dám cười nữa.
***
Khi trông thấy cô bé, ông ngửa ra sau hốt hoảng và hít vào một hơi sâu.
Cô đã trộn mỡ ngan với muội than từ lò sưởi, tạo nên một chiếc mặt nạ che kín mắt và kéo dài qua thái dương đến mang tai.
Cô trông như một con quỷ.
“Từ hòn đảo thứ tư dọc bờ sông, hãy đi vào khu đầm lầy,” ông lặp lại chỉ dẫn. “Rồi bám theo con sông tới nơi có ba cái cây chết, rồi theo hướng chỉ của những cây liễu sang phía tây. Khi những chồi thông xuất hiện thì sẽ có một con suối chạy dọc theo đó. Cô rẽ ở nhánh thứ chín và cứ bám theo cho đến khi nó không uốn éo nữa. Nơi đó là làng Dun Dare, có những mái lán nằm về phía bắc. Ngay sau chúng ở giữa nga ba, cô sẽ tìm được một quán rượu.”
“Tôi nhớ rồi. Tôi sẽ tìm được, đừng lo.”
“Đặc biệt cẩn thận ở khúc quanh của con sông. Những nơi sậy mọc thưa thớt. Hay những nơi dày đặc hà thủ ô. Và nếu trời tối trước khi cô kịp tới rừng thông, hãy dừng lại và nghỉ cho đến sáng. Cô không được phép vượt qua đầm lầy vào buổi đêm dưới bất kỳ hoàn cảnh nào. Đã gần tới kỳ trăng non và thêm nữa còn mây mù…”
“Tôi biết.”
“Khi tới vùng hồ…hãy hướng về phía đông qua những ngọn đồi. Tránh đường cái ra, chúng sẽ dày đặc quân lính. Cô sẽ tới một con sông, một con sông rất rộng gọi là Sylte, và tới đó thì được nửa đường rồi.”
“Tôi biết, ông đã vẽ bản đồ cho tôi mà.” “Ừ, cô nói phải. Ta quên mất.”
Ciri kiểm tra túi hành lý vài lần. Một cách máy móc. Cô bé không biết phải nói gì.
“Ta mừng là đã được gặp cô,” ông nói trước khi cô kịp cất lời. “Thật sự. Tạm biệt, nữ witcher.”
“Tạm biệt, ẩn sĩ. Cảm ơn ông vì mọi thứ.”
Cô ngồi lên yên và sắp sửa thúc Kelpie thì ông lại gần và cầm lấy tay cô. “Ciri. Ở lại đi. Hãy đợi qua mùa đông…”
“Tôi sẽ đến được cái hồ trước khi nó đóng băng. Và rồi, nếu ông đúng, tôi sẽ không phải lo về mùa đông nữa. Tôi sẽ dịch chuyển tới Thanedd. Tới trường Aretuza và cô Rita…Vysogota… mất bao lâu thì…”
“Tháp Nhạn là một huyền thoại. Hãy nhớ đó. Chỉ là một huyền thoại.”
“Tôi cũng là một huyền thoại,” cô nói cay đắng. “Từ lúc trào đời. Zireael, Chim Nhạn, Đứa Trẻ Bất Ngờ. Người được chọn. Đứa Trẻ của Định Mệnh. Đứa Trẻ mang Dòng Máu Cổ Xưa. Tôi phải đi, Vysogota. Bảo trọng.”
“Bảo trọng, Ciri.”
***
Quán rượu ở ngã ba đằng sau ngôi làng trống không. Cyprian Fripp Trẻ và ba người đồng hành đã từ chối không cho những người dân làng và khách lữ hành vào trong. Còn chúng thì uống rượu và tiệc tùng suốt ngày, ngồi trong một căn phòng lạnh lẽo tràn ngập khói thuốc, có mùi như một quán rượu bình thường vào mùa đông khi cửa sổ không được phép mở – mồ hôi, mèo, chuột, giày, gỗ thông, phong, mỡ động vật, tro, quần áo ướt và hơi nước.
“Phục vụ như cứt vậy đó,” Yuz Jannowitz nhắc lại có lẽ là lần thứ một trăm, ra hiệu cho phục vụ mang thêm vodka đến. “Bệnh dịch bắt Cú Nâu đi, ép chúng ta ở lại trong cái thị trấn khỉ ho cò gáy này! Thà đi tuần ngoài rừng còn tốt hơn!”
“Đừng có ngu thế chứ,” Dede Vargas trả lời. “Ngoài đó lạnh như băng vậy á! Tôi thích được ấm hơn. Và phụ nữ!”
Hắn vỗ mông một cô hầu gái nghe đét một tiếng. Cô gái ré lên, nghe không có vẻ thuyết phục lắm và hơi vô cảm. Công việc tại quán rượu đã dạy cho cô rằng nếu khách hàng vỗ hay cấu mình, cô phải ré lại. Họ thích thế.
Kể từ ngày thứ hai ở đây, Cyprian Fripp và các đồng đội đã xàm sỡ hai cô hầu gái. Ông chủ quán quá sợ để dám lên tiếng phản đối, còn các cô gái thì quá mệt để nghĩ đến chuyện phản đối. Cuộc sống đã dạy họ rằng khi một cô gái phản đối, cô ta sẽ ăn đòn. Do vậy khôn ngoan hơn thì nên đợi đến khi họ sờ soạng chán thì thôi.
“Chính là do cái con đĩ Falka đó,” Rispat la Pointe tiếp tục một chủ đề khác trong buổi trò chuyện đêm khuya tẻ nhạt, “cô ta đang nằm chết đâu đó ngoài rừng rồi, tôi cam đoan. Tôi đã thấy cái phi tiêu của Skellen cứa nát mặt cô ta và máu túa ra như suối! Cô ta không thể sống sót được.”
“Cú Nâu đã ném trượt.” Yuz Jannowitz nói. “Ông ta chỉ làm xước cô ta thôi. Đúng là cái mặt cô ta ăn đòn nặng thật. Nhưng liệu như vậy có là đủ để gây khó dễ cho một đứa con gái đã nhảy qua được một cái hàng rào? Cô ta có ngã khỏi con ngựa không? Mẹ kiếp! Khi chúng ta đo lại cái hàng rào phải cao hơn 2 mét rưỡi! Và cô ta đã nhảy qua! Và khoảng cách giữa mông cô ta và cái yên ngựa còn chả nhét vừa một con dao.”
“Máu chảy từ mặt cô ta như một con lợn bị cắt tiết,” Rispat la Pointe phản bác. “Cô ta đã chạy và trượt ngã khỏi yên ngựa xuống một cái khe suối nào đấy rồi, giờ này thì chắc sói cũng đã ăn hết thịt và quạ cùng kiến chắc cũng rỉa sạch cả xương. Cuối cùng, Deireádh. Vậy là chúng ta ngồi đây mốc mồm chờ lấy tiền. Và tất cả là bởi vì họ không thể tìm được con đĩ đó!”
“Không thể như vậy bởi vì một cái xác thì luôn để lại dấu vết,” Dede Vargas nói chắc nịch. “Luôn có thứ gì đấy còn lại, hộp sọ, xương chậu. Rience, tên pháp sư đó, khắc tìm được thi thể của Falka. Và thế là xong.”
“Và rồi chúng ta có thể biến khỏi cái hố xí này,” Cyprian Fripp Trẻ nói, đôi mắt buồn chán nhìn những bức tường của quán rượu mà hắn đã ghi nhớ đến từng cái vết ố, “và cái thứ rượu nhạt như nước đái này. Và cả hai mụ đàn bà kia nữa, người lúc nào cũng sặc mùi hành và khi phang phập thì nằm đờ ra cuội, ngắm trần nhà trong khi xỉa răng.”
“Mọi thứ đều tốt hơn là buồn chán,” Yuz Jannowitz tuyên bố. “Tôi đang muốn tru lên đây! Mẹ kiếp, tôi muốn làm cái gì đó! Cái gì cũng được! Hãy đi phóng hỏa ngôi làng đi, ít ra thì cũng có việc để tiêu khiển!”
Cánh cửa cọt kẹt. Tiếng động bất ngờ tới nỗi mọi người đều nhảy dựng lên.
“Ra ngoài!” Vargas gầm lên, “Ra ngoài ngay, lão già! Bọn lang thang hôi hám này! Biến ra ngoài mau!”
“Để mặc lão ta đi.” Fripp vẫy tay với vẻ chán chường. “Này, lão có mang theo một cây kèn túi kìa. Chắc lão là một cựu chiến binh, mấy ông già đó thường thích thổi kèn và ca hát trong các quán rượu sau khi giải ngũ. Ngoài sân kia lạnh lắm. Cứ để lão ngồi sưởi ấm ở đây…”
“Nhưng cách xa chúng ta,” Jannowitz chỉ chỗ nơi ông già có thể ngồi. “Chỗ này sắp sửa thành tổ chấy tới nơi rồi. Tôi có thể thấy chúng bò lổm ngổm khắp xung quanh. Mấy con này chắc phải gọi là rùa chứ không phải chấy nữa.”
“Chủ quán!” Fripp gọi to. “Đem cho lão già cái gì đó để ăn đi! Và đem rượu của chúng ta ra nữa!”
Ông già gỡ cái mũ lông to uỵch xuống và gật đầu.
“Cảm ơn, các quý ngài.” Ông nói. “Hôm nay là đêm hội Saovine. Và ngày hội này thường không có phong tục tống người khác ra ngoài cơn mưa và cái lạnh thấu xương. Trong hôm nay ai cũng được…”
“Đúng vậy,” Rispat la Pointe vỗ tay lên trán. “Hôm nay đúng là lễ hội Saovine! Ngày cuối cùng của tháng Mười!”
“Nó là đêm của quái vật,” chủ quán đã mang cho ông già ít súp. “Một đêm của ma quỷ và linh hồn!”
“Ha ha!” Yuz Jannowitz cười. “Lão già sẽ kể cho chúng ta nghe vài câu truyện dân gian chứ!”
“Phải đó,” Dede Vargas ngáp. “Bất kỳ cái gì cũng đỡ hơn là buồn chán!”
“Saovine,” Cyprian Fripp nói. “Đã được 5 tuần kể từ lúc ở làng Kỳ Lân. Và hai tuần chúng ta đã ngồi ở đây. Suốt hai tuần! Saovine, ha!”
“Một đêm của quái vật,” ông già liếm cái thìa, chọc ngón tay vào bát rồi mút nó. “Một đêm của ma quỷ và phép thuật!”
“Tôi đã nói gì nào?” Yuz Jannowitz mỉm cười. “Chúng ta sẽ được nghe kể truyện rồi!” Ông già gãi cằm và nấc cụt.
“Lễ hội Saovine,” ông bắt đầu bằng một giọng trầm ấm, “là đêm cuối cùng trước kỳ trăng non tháng Mười Một, và đối với người elves nó là đêm cuối cùng của năm cũ. Khi ngày mới ló dạng, đó sẽ là năm mới của người elves. Vậy nên họ có phong tục nhóm hết toàn bộ lửa quanh nhà vào đêm Saovine, chỉ chừa lại một cây đuốc, và cây đuốc đó sẽ lại được nhóm vào lễ Belleteyn. Và không chỉ có người elves làm vậy, mà ngay cả vài người trong số chúng ta cũng nhóm lửa để bảo vệ mình khỏi những linh hồn ác độc…”
“Linh hồn!” Yuz khịt mũi. “Nghe cái lão ngốc này nói xem!”
“Đây là đêm Saovine!” ông già nhắc lại. “Vào đêm nay những linh hồn sẽ bước đi trên mặt đất! Những linh hồn người chết gõ lên cửa sổ, ‘Để chúng tôi vào’, họ sẽ rên rỉ! Tốt nhất là hãy cho họ thịt lợn chấm mật ong, hoặc cũng có thể rải vodka lên…”
“Vodka chúng ta sẽ giữ lại và nốc xuống cổ họng mình,” Rispat la Pointe phì cười. “Và đám linh hồn của lão cứ việc hôn mông chúng ta!”
“Ôi, thưa ngài, xin đừng đem các linh hồn ra để đùa cợt, bởi họ rất thính tai và thù lâu! Đây là đêm Saovine! Nghe đi, các ngài có nghe thấy tiếng họ gõ cửa không? Họ là những linh hồn từ thế giới bên kia, họ muốn lẻn vào sưởi ấm bên lò sưởi và ăn uống no nê. Ở ngoài cánh rừng đơn độc đó, trong cơn gió mùa đông, họ sẽ bị lôi kéo đến những ngôi nhà nơi có ánh lửa và hơi ấm. Và chớ quên đặt một bát thức ăn lên ngưỡng cửa, hay trong nhà kho, bởi nếu họ không tìm được thứ để ăn, thì sau nửa đêm, họ có thể vào nhà…”
“Ối, thần linh ơi!” một cô hầu gái thì thầm, rồi ré lên khi bị Fripp cấu mông.
“Không phải một câu truyện tồi!” Fripp nói. “Nhưng còn lâu mới được gọi là hay! Chủ quán, rót cho lão già một cốc rượu để nhâm nhi cái coi, biết đâu lão sẽ kể được một câu truyện hay hơn. Một câu truyện cổ tích về ma quỷ, các chàng trai, bởi vì mấy cô hầu đang nghe lỏm và chẳng chịu phục vụ gì cả.”
Đám đàn ông cười ồ khi nghe thấy tiếng kêu của mấy cô gái đang nghe lỏm. Ông già nhấp một ngụm rượu ấm và ợ to mấy tiếng.
“Này, đừng có mà quá đà rồi ngủ gật đấy!” Vargas cảnh báo ông. “Lão ở đây là để tiêu khiển! Hãy kể truyện, hát vài bài và thổi kèn! Mua vui đi nào!”
Ông già mở miệng, để lộ một cái răng duy nhất đứng như bia mộ giữa cánh đồng trơ trọi. “Nhưng thưa ngài, đêm nay là Saovine! Tôi sẽ chơi cái gì đây? Âm nhạc của Saovine là
tiếng gió lùa qua khe cửa! Tiếng tru của người sói và ma cà rồng, và tiếng hú của ghoul! Banshee
than khóc và bất kỳ ai nghe thấy đều cầm chắc cái chết! Những linh hồn ác độc bò ra khỏi hang, phù thủy bay đến dự buổi triệu tập cuối cùng trước mùa đông! Saovine là đêm của ma quỷ và quái vật! Đừng đặt chân vào rừng, bởi chúng sẽ ăn tươi nuốt sống ta! Đừng bước vào nghĩa địa, bởi người chết sẽ sống dậy! Và tốt nhất là đừng rời khỏi nhà, treo một con dao sắt mới rèn lên khung cửa cho chắc ăn, bởi ma quỷ sẽ không dám bước qua nó. Những bà mẹ phải giữ chặt con cái bên cạnh mình trong đêm Saovine, bởi những đứa trẻ loài người rất dễ bị rusalka bắt cóc hoặc trở nên đột biến. Và một người phụ nữ mang thai thì không được ra ngoài, bằng không ma quỷ sẽ nhìn thấy và bắt đi đứa con trong bụng cô ta! Thay vì một đứa trẻ cô ta sẽ sinh ra một con striga với hàm răng nhọn hoắt như…”
“Ôi thần linh ơi!”
“Nhọn hoắt như dao găm. Đầu tiên nó sẽ xé nát ngực bà mẹ. Sau đó gặm tay cô ta. Rồi ăn đến mặt cô ta…à, tôi cũng đang đói nữa…”
“Cầm lấy khúc xương này đi, vẫn còn thịt trên đó đấy. Lão cần ăn nhiều hơn vào cái tuổi này không thì sao khỏe được, ha ha! Và mấy cô kia, đem rượu ra cho chúng ta đi. Nhanh nào, lão già, kể thêm chuyện ma đi!”
“Saovine, thưa ngài, là đêm cuối cùng mà những hồn ma có thể bay qua thế giới của chúng ta và cố trút bỏ cái lạnh giày vò xương cốt mình…bởi sau đó chúng sẽ phải xuống địa ngục, lòng đất vô tận nơi mùa đông mãi ngự trị. Do vậy, từ Saovine cho đến tháng Hai, khi lễ Imbaelk được tổ chức, là thời điểm thuận tiện nhất để truy tìm kho báu ở những nơi đáng sợ. Giả dụ, nếu một người đào huyệt khi thời tiết ấm áp, anh ta sẽ đánh thức hai đến ba con wight, và lũ quái vật sẽ nhảy lên và ăn thịt gã thợ săn kho báu. Nhưng khoảng thời gian giữa lễ Saovine và Imbaelk, ta có thể đào thoải mái tùy thích, bởi lũ wight sẽ ngủ say như gấu già.”
“Nghe mấy thứ lão già hâm này bịa mà xem!”
“Nó là sự thật, thưa ngài. Saovine là đêm kinh hoàng ấy nhưng vẫn màu nhiệm và là lúc tốt nhất để lên đồng hoặc tiên tri. Vào một đêm như vậy, ta có thể đọc chỉ tay hoặc bói bài, chiêm nghiệm điềm báo như gà trống trắng, pho mát hay ruột thỏ hoặc dơi chết…”
“Bah!”
“Vào đêm Saovine, đêm hội của ma quỷ…tốt hơn hết là ở trong nhà…quây quần quanh ngọn lửa. Cùng cả gia đình…”
“Cả gia đình,” Fripp Trẻ nhắc lại lời cuối cùng và mỉm cười với đồng bọn. “Cả gia đình, các cậu nghe chưa? Cả hai tuần ngồi trong cái làng này ngắm gái cuối cùng cũng hữu ích đó chứ!”
“Vợ của tay thợ rèn!” Yuz đoán ngay tức thì. “Người đẹp của làng! Cẩn thận cái đầu đấy, Fripp. Ngày hôm qua cậu suýt thì bị bắt quả tang trong nhà cô ta. Thế nào các chàng trai? Chúng ta có đến nhà của tay thợ rèn không?”
“Có lẽ sớm thôi,” Dede Vargas dài giọng. “Ngay lúc bước chân vào làng, cô ta đã đang ngúng nguẩy cái mông và lắc vú trước mặt tôi rồi…Tôi định tới chỗ cô ta nhưng cái tên Dacre Silifant đần độn đó nhảy vào…chà, Silifant thì đang ở xa còn vợ của tay thợ rèn lại đang ngồi nhà! Chúng ta còn đợi gì nữa?”
“Chúng ta đã giết lão thị trưởng của cái làng này rồi,” Rispat nhướng một bên lông mày. “Chúng ta cũng tẩn thằng ôn con đến bảo vệ lão một trận. Còn bao nhiêu người nữa phải chết đây? Tay thợ rèn và con trai hắn to như bò mộng vậy. Chúng không sợ chúng ta. Chúng ta sẽ phải…”
“Làm chúng đau một tí,” Fripp điềm tĩnh nói nốt. “Chỉ một tí thôi, không hơn. Chúng ta sẽ uống nốt rượu rồi vào làng ăn mừng lễ Saovine! Hay là tìm mấy bộ da cừu khoác lên người xong mới vào đó nhỉ. Lũ bần nông ấy sẽ tưởng chúng ta là quỷ hoặc wight.”
“Chúng ta có mang vợ của tay thợ rèn về phòng mình không, hay làm như phong tục quê tôi ở Gemmera, phang cô ta ngay trước mặt cả nhà?”
“Cũng không thể quên mấy thứ này được,” Fripp nhìn ra màn đêm bên ngoài qua khung cửa sổ. “Chết tiệt, gió mạnh đấy. Cả mấy cây bạch dương cũng bị uốn cong!”
“Ô hô hô!” ông già lên tiếng từ đằng sau cốc rượu. “Đó không phải một cơn gió bình thường đâu, thưa ngài. Những mụ phù thủy đang cưỡi chổi bay đến dự buổi họp mặt, rải ma dược vào cơn gió đằng sau để xóa mọi dấu vết. Một người đàn ông bị chúng bắt gặp trong rừng sẽ không có đường thoát!”
“Đem mấy câu chuyện của ông đi mà dọa trẻ con ý, lão già!”
“Xin đừng mỉa mai, thưa ngài, vào thời khắc đen tối này. Tôi nói mà nghe, những mụ phù thủy ác độc nhất, đến từ các gia đình bá tước hay công chúa, không cưỡi chổi đâu! Ôi không, chúng cưỡi mèo đen!”
“Ha, ha, ha, ha!”
“Quả thực như vậy! Bởi vì Saovine là đêm duy nhất trong năm mà mèo có thể biến thành ngựa đen như than. Và thương thay cho kẻ nào trong đêm tối nghe thấy tiếng vó ngựa và trông thấy mụ phù thủy trên lưng con ngựa đen. Kẻ mà bị mụ phù thủy bắt gặp sẽ chết chắc. Cô ta bay quanh hắn như chiếc lá bị gió thổi và kéo hắn xuống địa ngục!”
“Tôi bắt đầu thích câu truyện này rồi đấy, hãy kể nốt khi chúng ta quay lại, lão già! Khi quay lại chúng ta sẽ tiệc tùng! Chúng ta sẽ khiêu vũ và phang mụ vợ của tay thợ rèn…Cái gì thế Rispat?”
Rispat la Pointe, vừa mới ra ngoài sân để giải quyết nỗi buồn, chạy vào trong phòng, mặt trắng bệch như tuyết. Hắn ra hiệu như điên, chỉ về phía cánh cửa. Hắn không thốt nổi được một câu. Và cũng chẳng cần. Từ bên ngoài vọng lại tiếng ngựa hý.
“Một con ngựa đen,” Fripp nói, mặt gần như ịn vào kính cửa sổ. “Chính là con ngựa đen đó.
Là cô ta.”
“Phù thủy á?” “Falka, đồ ngu.”
“Là hồn ma của cô ta!” Rispat hớp hơi. “Một hồn ma! Cô ta không thể sống sót được! Cô ta đã chết và làm ma quay lại! Vào đêm Saovine.”
“Cô ta sẽ đến từ màn đêm đen như mực,” ông già lầm bầm, ôm chặt cái cốc thủy tinh vào người. “Và những ai thấy cô ta đều sẽ chết…”
“Vũ trang! Vũ trang!” Fripp như phát cuồng. “Khẩn trương lên! Núp sau hai bên cửa đi! Vận may đã mỉm cười với chúng ta rồi! Falka không biết chúng ta ở đây và chỉ đến để sưởi ấm thôi, cái lạnh và cơn đói đã lùa cô ta ra khỏi nơi ẩn nấp! Vào bàn tay chúng ta! Cú Nâu và Rience sẽ cho chúng ta tắm trong vàng! Lấy vũ khí mau…”
Cánh cửa cọt kẹt.
Ông già nghiêng người trên bàn, đôi mắt nheo lại. Ông nhìn không được rõ. Đôi mắt ông mệt mỏi, bị tàn phá bởi glaucoma và viêm mạc. Thêm nữa, quán rượu tối đen và mờ khói. Do vậy, ông không thể nhìn rõ cái dáng người bé nhỏ vừa bước vào phòng, khoác một chiếc áo da mùi xạ hương, mũ trùm đầu và khăn quàng che mặt. Tuy nhiên ông già lại rất thính tai. Ông nghe thấy tiếng hét của một cô hầu gái bị bịt lại, tiếng bước chân và tiếng chửi thề khe khẽ của ông chủ quán. Ông có thể nghe thấy tiếng vũ khí leng keng trong vỏ. Và giọng nói kinh miệt của Cyprian Fripp.
“Chúng ta bắt được ngươi rồi, Falka! Ngươi không ngờ chúng ta lại ở đây hả?” “Ta đã trông đợi các ngươi.” Ông già nghe thấy. Ông run rẩy trước giọng nói đó.
Ông nhìn thấy chuyển động của cái dáng người mảnh mai. Ông nghe thấy tiếng thở gấp, tiếng hét kinh hãi của một cô hầu gái. Ông không thể trông thấy cô gái tên Falka đã bỏ mũ và khăn quàng ra. Ông không thể trông thấy gương mặt bị hủy hoại khiếp đảm của cô. Ông không thể trông thấy đôi mắt tô đen bởi mỡ trộn muội than khiến cô nhìn như một con quỷ.
“Ta không phải Falka,” cô gái nói. Ông già lại trông thấy cô di chuyển lần nữa, nhanh và mờ mịt. Ông trông thấy thứ gì đó lóe sáng trong ánh đèn dầu. “Ta là Ciri của Kaer Morhen. Ta là một witcher. Ta tới đây để giết.”
Ông già, mà trong đời đã hơn một lần trải qua ẩu đả trong quán rượu, đã nghĩ ra được một phương pháp để tránh thương tích cho mình, đó là lăn xuống gầm bàn, co người lại hết mức có thể và ôm chặt lấy chân bàn. Từ vị trí đó, rõ ràng là ông không thể nhìn được gì hết. Và ông cũng không muốn nhìn. Ông bám chặt lấy chân bàn, kể cả khi chiếc bàn đã bị quăng ngang phòng cùng với vài món nội thất khác nữa. Xung quanh ông vang vọng tiếng ủng nặng nề, tiếng ra lệnh, la hét, chửi rủa và sắt thép leng keng.
Một cô hầu gái hét chói tai, không ngừng nghỉ.
Ai đó lăn qua bàn, làm xô lệch vài món đồ cùng với ông già đang bám lấy nó, và ngã xuống đất. Ông la lên khi cảm thấy máu ấm bắn lên người mình. Dede Vargas, kẻ ban đầu đã muốn tống ông ra ngoài, ông nhận ra hắn nhờ vào những chiếc khuy đồng thêu trên áo. Hắn tru tréo thảm thiết, lăn lộn xung quanh, nhổ máu và tay quờ quạng lung tung. Một cú đấm ngẫu nhiên bay trúng mắt ông già. Ông không còn nhìn được gì nữa. Cô hầu gái đang hét bỗng im bặt, hít vào một hơi và lại bắt đầu với âm vực còn cao hơn trước.
Ai đó ngã xuống sàn nhà cái uỵch, bắn hết máu ra sàn gỗ thông vừa mới lau chùi bóng bẩy. Ông già không biết người vừa mới chết là Rispat la Pointe. Ciri đã cứa đứt cổ hắn. Ông không thể thấy cô gái xoay một vòng sang phải ra trước mặt Fripp và Jannowitz, và luồn qua lớp phòng thủ của chúng như một bóng ma hay làn khói. Jannowitz nhảy theo cô như một con mèo dại. Hắn là một kiếm sĩ giỏi. Đứng vững trên chân phải, hắn lợi dụng sải tay dài và tấn công thẳng vào mặt cô gái, ngay vết sẹo xấu xí. Hắn phải đánh trúng.
Hắn đã trượt.
Jannowitz không kịp tự vệ. Cô gái cắt trúng hắn ở cự ly gần bằng cả hai tay, chéo qua ngực và bụng. Cô nhảy lùi lại, xoay người trong khi né đường kiếm của Fripp, và chém trúng cổ Jannowitz. Hắn ngã ngửa ra sau. Fripp bước qua xác kẻ đồng hành và tung một đường kiếm chớp nhoáng. Ciri chặn nó, làm một động tác xoay nửa vòng và tặng hắn một nhát ngắn vào đùi. Fripp lảo đảo và vấp phải cái bàn, mất thăng bằng, hắn với tay ra theo bản năng. Khi cái tay đặt lên bàn, Ciri nhanh như cắt chặt đứt nó.
Fripp giơ lên mẩu tay cụt đẫm máu, nhìn một lúc lâu, rồi quay sang cái tay trên mặt bàn, rồi chợt đổ xuống đất, bổ ngửa ra sau như thể giẫm trúng xà phòng. Một khi đã yên vị, hắn bắt đầu tru, một tiếng tru sắc lạnh và hoang dại như chó sói.
Cúi dưới gầm bàn, người dính đầy máu, ông già lắng nghe một lúc cặp đôi ma quái đó – cô hầu gái đang la hét và Fripp tru không ngừng.
Cô gái im lặng trước, kết thúc tiếng hét không giống người của mình bằng một tiếng ré.
Fripp chỉ đơn giản ngậm miệng lại.
“Mẹ ơi,” hắn bỗng lên tiếng, nghe rõ ràng và hoàn toàn tỉnh táo. “Mẹ ơi…cái…cái gì…cái gì đã xảy ra với con vậy? Cái…gì?”
“Ngươi đang chết.” cô gái với gương mặt dị dạng trả lời.
Chút tóc còn lại trên cái đầu hói ông già dựng đứng lên. Để ngăn cơn run rẩy, ông ngậm chặt tay áo.
Cyprian Fripp Trẻ kêu lên một tiếng nghe như nuốt nước bọt. Rồi hắn không phát ra âm thanh nào nữa.
Chỉ còn lại sự im lặng tuyệt đối.
“Cô đã làm gì…” ông chủ quán rên rỉ giữa sự im lặng. “Cô đã làm gì vậy, cô gái…” “Tôi là một witcher. Tôi giết quái vật.”
“Chúng tôi sẽ bị treo cổ…chúng sẽ đốt cả ngôi làng!”
“Tôi giết quái vật,” cô nhắc lại, giọng chợt thay đổi như thể ngỡ ngàng.
Ông chủ quán nức nở. Ông già chầm chậm đứng dậy từ nơi ẩn náu bên dưới cái bàn. Ông di chuyển để tránh cái xác với gương mặt bị cắt xẻ của Dede Vargas.
“Cô cưỡi một con ngựa đen…” ông lầm bầm. “Giữa màn đêm tối như mực…xóa đi dấu vết đằng sau mình…”
Cô gái quay lại nhìn ông. Cô đã có thời gian để che lại mặt bằng khăn quàng, và đôi mắt tô đen sáng bóng chiếu lên người ông.
“Những kẻ bị cô bắt gặp,” ông già lắp bắp, “sẽ không tránh khỏi cái chết. Bởi vì cô chính là cái chết.”
Cô gái nhìn ông. Trong một lúc lâu. Và hoàn toàn lãnh cảm. “Ông nói đúng.” Cuối cùng cô đáp lời.
***
Đâu đó trong khu đầm lầy, cách xa xa, nhưng gần hơn lúc trước, vọng lại tiếng la não nề của Banshee.
Vysogota nằm dưới đất, nơi mà ông đã ngã xuống trong lúc ra khỏi giường. Ông nhận ra với sự kinh hãi rằng mình không thể đứng dậy được. Quả tim như vọt lên cổ, chẹn họng ông.
Ông biết tiếng khóc của linh hồn elves đó đang báo hiệu cái chết của ai. Cuộc sống thật đẹp,
ông nghĩ, bất chấp mọi thứ.
“Các vị thần ơi…” ông thì thầm. “Ta biết rằng mình không tin vào các vị…nhưng, nếu các vị thực sự tồn tại…”
Một cơn đau chợt nổ tung trong lồng ngực ông, bên dưới xương ức.
Trong khu đầm lầy, cách xa xa, nhưng gần hơn lúc trước, tiếng Banshee hét lần thứ ba. “Nếu các vị thực sự tồn tại, thì xin hãy bảo vệ nữ witcher!”
“Mắt ta lớn để nhìn con được rõ hơn,” Sói gầm gừ. “Tay ta to để ôm con được chặt hơn! Với ta mọi thứ đều to lớn, và ta sẽ thuyết phục con tin điều đó sớm thôi. Sao con lại nhìn ta như vậy, cô bé? Sao con không trả lời?”
Nữ pháp sư mỉm cười. “Ta có một bất ngờ cho ngươi đây.”
- Flourens Delannoy, trích “Bất ngờ” từ Truyện cổ tích và dân gian.