The Witcher Quyển 2 – Điều ước cuối cùng
Tác giả: Andrzej Sapkowski
Dịch giả: Tổng hợp
Số chương: 13
Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới
“Geralt.”
Anh ngẩng đầu dậy, tỉnh ngủ. Mặt trời đã đang ở trên cao và chiếu những tia nắng vàng qua khung cửa sổ, đâm xuyên vào căn phòng bằng những chiếc xúc tu ánh sáng. Witcher lấy tay che mắt theo phản xạ không cần thiết, bản năng mà anh vẫn chưa tìm cách bỏ được – sau cùng thì tất cả những gì anh cần làm chỉ là thu hẹp đồng tử lại.
“Trễ rồi,” Nenneke nói, mở cửa sổ ra. “Anh đã ngủ quá giấc. Con đi đi, Iola.”
Cô gái đột nhiên ngồi dậy và trèo ra khỏi giường để nhặt lên cái áo choàng nằm trên sàn. Geralt cảm thấy một giọt nước miếng lạnh trên vai mình, nơi mà đôi môi cô vừa mới lưu lại một giây trước.
“Đợi đã…” anh ngập ngừng. Cô nhìn anh, rồi nhanh chóng quay đi.
Cô đã thay đổi. Vẻ tiên nước ở cô chẳng còn lại chút gì nữa, không còn sự lung linh, mùi hương cúc La Mã của bóng ma buổi bình minh. Đôi mắt cô màu xanh, không phải đen. Và cô có tàn nhang – trên mũi, viền cổ, vai. Chúng không xấu, chúng hợp với nước da và mái tóc hơi đỏ của cô. Nhưng anh đã không nhìn thấy chúng vào lúc bình minh, khi cô vẫn còn là một giấc mơ. Anh xấu hổ khi nhận ra rằng mình cảm thấy hận cô, hận rằng cô không còn là một giấc mơ nữa, và anh sẽ không bao giờ tha thứ được cho bản thân mình.
“Đợi đã,” anh nhắc lại. “Iola…tôi muốn…”
“Đừng nói chuyện với cô ấy, Geralt.” Nenneke nói. “Đằng nào thì cô ấy cũng sẽ không trả lời anh đâu. Con đi đi, Iola.”
Quấn người trong tấm áo choàng, cô gái bước lững thững ra phía cửa, đôi chân trần lướt trên sàn – bối rối, ngại ngùng, xấu hổ. Không còn gợi cho anh nhớ về…
Yennefer.
“Nenneke,” anh nói, với lấy cái áo. “Tôi hy vọng là bà không thấy khó chịu…Bà sẽ không phạt cô ấy chứ, phải không?”
“Đồ ngốc,” nữ tư tế khịt mũi. “Anh đã quên mất là mình đang ở đâu rồi. Đây không phải một túp lều ẩn sĩ hay tu viện. Đây là Đền thờ Melitele. Nữ thần của chúng ta không cấm cản các tư tế cái gì hết. Gần như là vậy.”
“Bà đã cấm tôi không được nói chuyện với cô ấy.”
“Ta không cấm anh. Nhưng việc đó là vô nghĩa. Iola không nói.” “Cái gì?”
“Cô ấy không nói. Cô ấy đã thề. Đó kiểu như là một sự hy sinh để…Ôi, mà giải thích làm gì, đằng nào thì anh cũng có hiểu đâu. Anh thậm chí còn chẳng cố để hiểu, ta biết quan điểm của anh về tôn giáo như thế nào. Không, đừng mặc đồ vội. Ta muốn kiểm tra cổ anh.”
Bà ngồi xuống cạnh giường và điệu nghệ tháo lớp băng dày cộp quấn quanh cổ witcher. Anh nhăn mặt đau đớn.
Ngay khi anh vừa tới Ellander, Nenneke đã tháo sợi chỉ to như dây giày mà họ dùng để khâu cho anh ở Vizima, làm vết thương lại hở ra và rồi khâu nó lại. Kết quả rất rõ ràng: anh tới ngôi đền trong trạng thái gần như bình phục, chắc chỉ vẫn còn hơi khó cử động một chút. Và giờ thì anh lại ốm, và đau đớn. Nhưng anh không phản đối. Anh đã quen nữ tư tế được nhiều năm và biết rõ vốn kiến thức sâu rộng của bà trong việc trị thương, những bài thuốc của bà phức tạp và phong phú đến mức nào. Một chuyến nghỉ dưỡng ở Đền thờ Melitele chỉ có thể là tốt.
Nennke sờ vết thương, rửa nó và bắt đầu chửi rủa. Anh đã thuộc nằm lòng quy trình này rồi. Bà đã bắt đầu làm thế từ ngày đầu tiên, và chưa lần nào là không than vãn mỗi khi nhìn thấy vết cào gây ra bởi móng vuốt của cô công chúa Vizima.
“Thật kinh khủng! Để mình bị thương thế này vì một con striga tầm thường. Cơ, dây chằng – nó suýt nữa là chạm đến động mạch của anh! Melitele Vĩ Đại ơi! Geralt, anh làm sao vậy? Sao nó lại có thể đến gần anh tới mức đó? Anh muốn cái gì? Cưỡi nó à?”
Anh không trả lời, và khẽ mỉm cười.
“Đừng có nhăn răng ra như thằng đần thế nữa.” Nữ tư tế đứng lên và lôi ra một túi băng buộc vết thương từ trong ngăn kéo tủ. Bất chấp cân nặng và thân hình thấp bé, bà di chuyển rất nhanh và duyên dáng. “Chẳng có gì đáng cười hết. Anh đang trở nên chậm dần rồi đấy, Geralt.”
“Bà chỉ phóng đại thôi.”
“Ta không phóng đại chút nào.” Nenneke bôi một thứ bùn xanh có mùi như bạch đàn lên vết thương. “Anh lẽ ra không nên để mình bị thương, nhưng anh đã để, và rất nghiêm trọng là đằng khác. Thậm chí là chết người. Kể cả với khả năng hồi phục siêu phàm của mình đi chăng nữa, sẽ phải mất vài tháng trước khi cổ anh có thể cử động được hoàn toàn. Ta cảnh báo anh đấy, đừng thử sức bằng cách chiến đấu với một đối thủ nhanh nhẹn trong thời gian đó.”
“Cảm ơn bà. Có lẽ bà cũng có thể cho tôi thêm vài lời khuyên nữa: tôi sẽ sống suốt quãng thời gian đó kiểu gì? Tập hợp vài cô gái, mua một cái xe và làm một cái nhà thổ lưu động?”
Nenneke nhún vai, băng vết thương với động tác nhanh nhẹn và khéo léo. “Chẳng lẽ ta phải cho anh lời khuyên và dạy anh cách sống thế nào sao? Ta là mẹ anh chắc? Rồi, xong rồi đó. Anh có thể mặc quần áo vào. Bữa sáng đang đợi anh trong phòng ăn. Khẩn trương lên nếu không anh sẽ phải tự đi nấu lấy đó. Ta không có ý định giữ các cô gái trong nhà bếp cho tới trưa.”
“Lát nữa tôi sẽ tìm bà ở đâu? Trong thánh đường?”
“Không.” Nenneke đứng lên. “Không phải trong thánh đường. Anh là một vị khách quý ở đây, witcher, nhưng đừng lang thang quanh thánh đường. Cứ đi dạo đi, và ta sẽ tự tìm anh.”
“Rồi.”
***
Geralt đi dạo – cho đến lần thứ tư – dọc dãy hành lang tạo nên bởi hai hàng bạch dương dẫn từ cổng cho tới nơi ở bên cạnh thánh đường và các khối nhà chính của ngôi đền, mà nhập vào làm một với vách đá dựng đứng. Sau một chút cân nhắc anh quyết định không quay về phòng nữa, mà hướng đến khu vườn và các tòa nhà bên ngoài. Một số đông các nữ tư tế, mặc quần áo lao động xám màu, đang chạy qua chạy lại, tưới nước cho cây hoặc cho gà ăn trong chuồng. Đa số họ trẻ hoặc rất trẻ, gần như vẫn là con nít. Một số chào đón anh bằng một nụ cười hoặc cái gật đầu khi đi ngang qua. Anh đáp lại lời chào của họ nhưng không nhận ra ai cả. Mặc dù thường xuyên đến thăm đền thờ – một hoặc hai lần mỗi năm – nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy quá ba hay bốn gương mặt thân quen. Các cô gái đến rồi lại đi – trở thành các bà đồng trong những ngôi đền khác, người đỡ đẻ hay trị thương với chuyên môn là bệnh phụ nữ và trẻ nhỏ, các thầy druid lang thang, các giáo viên hay thống đốc. Nhưng ở đây không bao giờ thiếu tư tế, đến từ đủ mọi vùng miền kể cả xa xôi nhất. Đền thờ Melitele ở Ellander được biết đến rộng rãi và tận hưởng danh tiếng xứng đáng của mình.
Giáo phái Melitele là tổ chức tôn giáo lâu đời nhất, và trong thời của nó, là một tôn giáo được phổ biến rộng rãi nhất. Gần như mọi chủng loài tiền con người và mọi bộ tộc du mục nguyên thủy đều tôn thờ một nữ thần của mùa màng và sinh nở, một hộ vệ của nông dân và người làm vườn, một đức thánh bảo vệ cho tình yêu và hôn nhân. Rất nhiều các tôn giáo này đã hợp lại thành giáo phái Melitele.
Thời gian, mà không có sự thương xót đối với các tôn giáo khác, cô lập chúng trong các đền thờ bé nhỏ, chẳng ai đoái hoài và bị lãng quên, những thánh đường bị chôn vùi trong những ngôi nhà đổ nát, đã tỏ ra nhân từ đối với Melitele. Nữ thần không hề thiếu tín đồ hay nhà bảo trợ. Trong công cuộc giải thích sự nổi tiếng của bà, các học giả nghiên cứu hiện tượng này thường quay lại giả thiết về giáo phái tiền thân của Đức Mẹ Vĩ Đại, Mẹ Thiên Nhiên, và chỉ ra sợi dây liên kết với vòng tròn tuần hoàn của tự nhiên, với sự tái sinh của sự sống và những hiện tượng được đặt tên hoành tráng khác. Người bạn thân của Geralt, nhà thơ Dandelion, người mà tận hưởng danh tiếng như một chuyên gia trong mọi lĩnh vực có thể, đã tìm một câu trả lời đơn giản hơn. Cậu lý giải rằng giáo phái của Melitele là một giáo hội đặc trưng của phụ nữ. Sau cùng thì, Melitele là nữ thần của mùa màng và sinh nở, bà là hộ vệ của các bà mẹ. Và một người phụ nữ khi mang thai thì phải la hét. Ngoại trừ những lời chửi rủa quen thuộc – thường là hứa hẹn rằng sẽ không bao giờ trao thân cho bất kỳ gã đàn ông chết tiệt nào nữa – một người phụ nữ lâm bồn sẽ phải cầu viện đến một thực thể thần thánh nào đó, và Melitele là đối tượng hoàn hảo. Và vì phụ nữ đã mang thai, đang mang thai và sẽ luôn mang thai, nữ thần Melitele, nhà thơ đã chỉ ra, sẽ không bao giờ phải lo sợ đến danh tiếng của mình.
“Geralt.”
“Nenneke. Tôi đang đi tìm bà đây.”
“Ta sao?” Nữ tư tế nhìn anh khinh khỉnh. “Không phải Iola à?” “Cả Iola nữa,” anh thú nhận. “Điều đó có làm bà khó chịu không?”
“Ngay lúc này thì có. Ta không muốn anh làm vướng chân và khiến cô
ấy phân tâm. Cô ấy cần phải chuẩn bị và cầu nguyện nếu muốn lần lên đồng này có kết quả.”
“Tôi đã bảo bà rồi,” anh nói lạnh lùng, “tôi không muốn lên đồng. Tôi không nghĩ một buổi lên đồng sẽ giúp gì được cho mình.”
“Trong khi ta,” Nenneke nhăn nhó, “không nghĩ rằng một buổi lên đồng sẽ gây hại gì đến anh cả.”
“Tôi không thể bị thôi miên, tôi miễn nhiễm. Tôi lo cho Iola. Việc này có thể quá sức đối với một bà đồng.”
“Iola không phải một bà đồng hay mấy kẻ tiên tri tâm thần. Cô gái đó đã được nữ thần ban phước. Xin đừng làm mặt ngộ. Như ta đã nói, ta hiểu quan điểm của anh về tôn giáo, nó chưa bao giờ khiến ta khó chịu, và chắc chắn là cũng sẽ không bao giờ trong tương lai. Ta không phải một kẻ cuồng tín. Anh có quyền tin rằng chúng ta sống dưới sự cai quản của Thiên Nhiên và sức mạnh ẩn chứa bên trong bà. Anh có thể nghĩ rằng các vị thần, bao gồm cả Melitele của ta, chỉ đơn giản là sự nhân hóa sức mạnh này để những đầu óc giản đơn có thể hiểu được nó tốt hơn, chấp nhận sự tồn tại của nó. Theo ý kiến của anh, sức mạnh đó mù lòa. Nhưng đối với ta, Geralt, lòng tin có thể chỉ lối tới những gì mà nữ thần của ta đại diện cho tự nhiên: trật tự, luật pháp, cái thiện. Và hy vọng.”
“Tôi biết.”
“Nếu biết, sao anh vẫn cứ ác cảm với lên đồng như vậy? Anh sợ cái gì? Rằng ta sẽ bắt anh cúi chào một bức tượng và cầu kinh? Geralt, chúng ta sẽ chỉ đơn giản là ngồi với nhau một lát – anh, ta, Iola – và để xem liệu tài năng của cô gái có thể cho phép cô ấy nhìn xuyên qua lốc xoáy đang bao quanh anh hay không. Có thể chúng ta sẽ khám phá ra điều gì đó đáng giá. Và có thể chúng ta sẽ chẳng khám phá ra gì hết. Có thể sức mạnh và định mệnh đang vây quanh anh sẽ không muốn xuất hiện trước chúng ta, sẽ tiếp tục ẩn giấu và mập mờ. Ta không biết. Nhưng tại sao chúng ta không nên thử?”
“Bởi vì chẳng có ích gì cả. Chẳng có lốc xoáy hay định mệnh nào vây quanh tôi hết. Và nếu có, thì tôi muốn nhảy vào đó làm cái quái gì?”
“Geralt, anh bị bệnh.” “Ý bà là bị thương.”
“Anh biết ý ta là gì mà. Có gì đó không ổn với anh. Ta có thể cảm nhận
thấy. Sau cùng thì, ta đã biết anh từ khi còn nhỏ. Khi mới gặp, anh chỉ đứng đến thắt lưng ta. Và giờ thì ta có cảm giác anh đang quay mòng trong một cái lốc xoáy khỉ gió nào đấy, vướng phải một sợi thòng lọng đang từ từ thắt chặt. Ta muốn biết chuyện gì đang diễn ra. Nhưng ta không thể tự làm được, ta phải trông cậy vào tài năng của Iola.”
“Bà muốn can thiệp sâu hơn. Cần đến mấy trò tâm lý đó làm gì? Tôi sẽ tâm sự với bà, nếu bà thích. Tôi sẽ lấp đầy buổi tối của bà bằng câu truyện về những sự kiện còn phi thường hơn trong vài năm gần đây. Hãy kiếm một két bia để cổ họng tôi đỡ khô và chúng ta có thể bắt đầu ngay hôm nay. Nhưng tôi sợ là bà sẽ thấy chán thôi bởi vì chẳng có lốc xoáy hay thòng lọng nào trong đó cả. Chỉ là cuộc đời của một witcher bình thường.”
“Ta rất muốn nghe chúng. Nhưng một buổi lên đồng, ta lặp lại, sẽ không có hại gì hết.”
“Bà không nghĩ là,” anh mỉm cười, “sự thiếu hụt đức tin của tôi sẽ khiến nó trở nên vô nghĩa chứ?”
“Không, ta không nghĩ vậy. Và anh biết tại sao không?” “Không.”
Nenneke nghiêng người sang và nhìn vào mắt anh với một nụ cười lạ lùng trên đôi môi nhợt nhạt.
“Bởi vì đó sẽ là minh chứng đầu tiên cho thấy sự thiếu hụt đức tin cũng có sức mạnh nào đấy.”